ĐỘNG LỰC THU HÚT GIẢNG VIÊN CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐH TRONG THỰC HIỆN TỰ CHỦ ĐẠI HỌC Ở VN HIỆN NAY

Ngày 07/03/2023
  1. Mở đầu

Sau khi Luật Giáo dục đại học sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2018 và có hiệu lực thi hành, nhiều cơ sở giáo dục đại học trong cả nước đã và đang triển khai, thực hiện. Tự chủ đại học không phải là vấn đề mới lạ ở nước ta, tuy nhiên, không phải cơ sở giáo dục đại học nào cũng “bắt nhịp” một cách nhanh chóng để thành công, nhiều cơ sở đại học vẫn đang trong tình trạng “loay hoay” nhằm tìm ra cách thức phù hợp nhất cho mình trong quá trình phát triển. Giảng viên được coi là yếu tố cốt lõi của tự chủ đại học hiện nay. Tuy nhiên, thực tế tuyển sinh tại các cơ sở giáo dục đại học những năm gần đây có sự phân hoá khá rõ nét. Những trường TOP trên có nhiều cơ hội để thu hút giảng viên có trình độ chuyên môn tốt, chất lượng các công trình nghiên cứu cao. Những trường TOP dưới, đặc biệt là các đại học địa phương đang xảy ra hiện tượng “di động nghề nghiệp” của giảng viên sang các cơ sở giáo dục đại học tốt hơn. Bài viết đề cập động lực thu hút giảng viên, đặc biệt là giảng viên chất lượng cao tại các cơ sở giáo dục trong quá trình thực hiện tự chủ đại học hiện nay.

  1. Nội dung

2.1. Một số vấn đề lý luận

Khái niệm Giảng viên và Yêu cầu của giảng viên trong các cơ sở giáo dục

* Giảng viên trong cơ sở giáo dục đại học:

Giảng viên là người thực hiện hoạt động giảng dạy ở các cơ sở giáo đục đại học. Pháp luật có quy định cụ thể trong công tác giảng dạy tại bậc đại học. Qua đó cũng quy định cụ thể các tiêu chuẩn, điều kiện để được trở thành giảng viên. Có nhiều chức danh giảng viên trên thực tế, nhằm phân loại và đánh giá về năng lực, trình độ chuyên môn. Giảng viên đại học có yêu cầu trong tuyển chọn cũng như thi cử nghiêm ngặt, để đảm bảo hiệu quả giảng dạy cũng như nghiên cứu lý luận. “Giảng viên trong cơ sở giáo dục đại học là người có nhân thân rõ ràng; có phẩm chất, đạo đức tốt; có đủ sức khỏe để thực hiện nhiệm vụ; có trình độ đáp ứng quy định của Luật này, quy chế tổ chức và hoạt động của cơ sở giáo dục đại học.

Như vậy, giảng viên là người được tuyển dụng theo vị trí việc làm và chức danh nghề nghiệp, làm việc theo chế độ hợp đồng, có nhân thân rõ ràng; có phẩm chất, đạo đức tốt; có sức khỏe; có năng lực, kỹ năng chuẩn về chuyên môn, nghiệp vụ, đảm nhiệm công tác giảng dạy, nghiên cứu khoa học và các hoạt động khác thuộc một chuyên ngành đào tạo của trường đại học. Theo đó, đội ngũ giảng viên trong các cơ sở giáo dục đại học chủ yếu là những nhà khoa học, nhà chuyên môn có trình độ cao, gắn bó với nghiên cứu khoa học và các hoạt động văn hóa – xã hội.

Ở bậc đại học, việc nghiên cứu tập trung với lý luận và các nghiên cứu khoa học. Cho nên giảng viên phải có trình độ từ thạc sĩ trở lên (trừ trợ giảng). Trong đó, cũng ưu tiên tuyển dụng các giảng viên có năng lực, chất lượng giảng dạy và thành tích tốt. Qua đó cống hiến nhiều hơn cho sự nghiệp giáo dục cũng như chất lượng nguồn lao động tương lai.

* Yêu cầu của giảng viên:

Để trở thành người giảng dạy tốt, bên cạnh năng lực sư phạm và hoạt động văn hóa – xã hội, người giảng viên cần có đồng thời hai năng lực, đó là: Năng lực chuyên môn và Năng lực nghiên cứu khoa học. Sự thống nhất hai năng lực đó đưa ra các yêu cầu của người giảng viên hiện nay, gồm: 1) Giảng viên phải hiểu biết, có kiến thức về nhà trường đại học, môi trường giáo dục đại học. 2) Giảng viên phải biết mục tiêu, tính chất, đặc điểm của ngành học mà nhà trường mình đang đào tạo. 3) Giảng viên phải nắm vững chương trình đào tạo, cụ thể: mục tiêu môn học; mục đích, nhiệm vụ, nội dung dạy học; phương pháp và các hình thức tổ chức dạy học, kiểm tra – đánh giá… 4) Giảng viên phải hiểu rõ người học, biết khai thác động lực và tiềm năng của người học và hạn chế những tiêu cực. 5) Giảng viên phải biết vận dụng quy luật, nguyên tắc trong dạy học và đặc biệt biết hướng dẫn sinh viên tự học, tự nghiên cứu. 6) Giảng viên phải biết vận dụng các hình thức dạy học, phương pháp dạy học, sử dụng phương tiện dạy học, biết cải tiến thường xuyên việc dạy học. 7) Dạy học cần coi trọng phương pháp tìm kiếm, đây là phương pháp nghiên cứu khoa học, phương pháp phát hiện và giải quyết vấn đề.

2.2. Động lực và các hình thức động lực

* Động lực là thuật ngữ chỉ một quá trình từ lúc bắt nguồn, định hướng và duy trì các hành vi có mục đích giúp ta hoàn thành mục tiêu. Các yếu tố cấu thành nên động lực liên quan đến bản năng, cảm xúc, nhu cầu sinh lý, xã hội. Theo tâm lý học, động lực là những yếu tố thúc đẩy hành động để đáp ứng những mong muốn của chủ thể, giúp khơi dậy năng lượng tích cực bên trong con người. Nói một cách dễ hiểu, động lực là sức mạnh bên trong con người, là năng lượng, sự nhiệt tình, niềm đam mê, khát khao, tham vọng thúc đẩy bạn hành động, tiếp tục hướng tới một mục tiêu nhất định và hoàn thành mục tiêu của mình. Người có động lực luôn là những người mang năng lượng tích cực, nỗ lực, nhiệt huyết với công việc, sẵn sàng thách thức để đạt được mục đích mà mình hướng tới. Từ đó, năng suất và chất lượng làm việc được tăng cao.

* Các loại động lực:

Có 2 loại động lực: Động lực bên ngoài và Động lực bên trong

– Động lực bên ngoài: là những động lực từ bên ngoài tác động vào một cá nhân và khởi tạo của loại động lực này thường liên quan đến phần thưởng hoặc hình phạt. Phần thưởng như tiền, quà, sự tán dương nhằm kích thích tính cạnh tranh, phấn đấu của nhân viên để hoàn thành chỉ tiêu vượt mức bình thường, tăng năng suất làm việc. Hình phạt như trừ lương, kiểm điểm sẽ thúc đẩy nhân viên làm việc cẩn trọng hơn, giúp tạo môi trường làm việc nghiêm túc, kỷ luật.

– Động lực bên trong: những động lực xuất phát từ bên trong mỗi cá nhân, thường bắt nguồn từ sự yêu thích, niềm đam mê, thích thú khi làm việc và khát khao được cống hiến, đóng góp cho cơ quan nơi họ đang làm việc.

2.3. Tự chủ giáo dục đại học

Tự chủ là “tự điều hành, quản lý mọi công việc của mình không bị ai chi phối”[2], theo đó, quyền tự chủ của một cơ sở giáo dục và đào tạo là quyền được tự tổ chức, quản lý các hoạt động của cơ sở một cách chủ động, tích cực, sáng tạo nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ, sứ mệnh của cơ sở giáo dục và đào tạo. Quyền tự chủ của cơ sở giáo dục và đào tạo được hiểu theo hai cấp độ: Cấp độ lớn là quyền tự chủ của cơ sở giáo dục và đào tạo đối với quyền điều hành, kiểm soát của cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo. Cấp độ nhỏ hơn là quyền tự chủ trong nội bộ của cơ sở giáo dục và đào tạo. Cơ sở giáo dục đại học thực hiện quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình theo quy định của pháp luật. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm tôn trọng và bảo đảm quyền tự chủ của cơ sở giáo dục đại học”.

2.4. Thực trạng về trình độ chuyên môn, nghiên cứu khoa học của đội ngũ giảng viên và tuyển sinh ở các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam hiện nay

2.4.1. Thực trạng trình độ chuyên môn của giảng viên

Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, năm học 2017-2018, tổng số giảng viên trong các trường đại học là 74.991 người (công lập: 59.232 người; ngoài công lập: 15.795 người). Trong đó, số lượng giảng viên có trình độ tiến sĩ là 20.198 người (chiếm 26,9%); trình độ thạc sĩ là 45.266 người (chiếm 60,36%); trình độ đại học 9.495 người (chiếm 12,66%); trình độ khác là 32 người (chiếm 0,08%).

Năm học 2018-2019, tổng số giảng viên trong các trường đại học là 73.312 người (công lập: 56.985 người; ngoài công lập: 16.327 người). Trong đó, số lượng giảng viên có trình độ tiến sĩ là 21.106 người (chiếm 28,8%); trình độ thạc sĩ là 44.705 người (chiếm 60,98%); trình độ đại học là 7.489 người (chiếm 10,2%); trình độ khác là 12 người (chiếm 0,02%).

Năm học 2019-2020, tổng số giảng viên trong các trường đại học là 73.132 người (công lập: 57.217 người; ngoài công lập: 15.915 người). Trong đó, số lượng giảng viên có trình độ tiến sĩ là 21.977 người (chiếm 30,05%); trình độ thạc sĩ là 44.119 người (chiếm 60,33%); trình độ đại học là 6.543 người (chiếm 8,95%); trình độ khác là 493 người (chiếm 0,67%).

Trong 5 năm gần nhất từ 2012 đến 2017 mỗi năm số giảng viên tăng (cơ học) bình quân khoảng 5%, do đó, số giảng viên tăng thêm trong năm tới sẽ khoảng trên 3.000 người, trong đó số tăng mới này được xác định là hầu hết chưa được đào tạo thạc sĩ. Tuy nhiên, nhìn biểu đồ bên dưới, số lượng giảng viên đại học giữa các năm học 2017-2018, 2018-2019 và 2019-2020 cho thấy số lượng giảng viên đang có xu hướng giảm (từ 74.991 người xuống 73.132 người).

Nghị quyết 29-NQ/TW của Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo nêu rõ: “Giảng viên cao đẳng, đại học có trình độ từ thạc sỹ trở lên và phải được đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm”. Theo các biểu đồ trên, trình độ giảng viên tại các cơ sở giáo dục đại học chưa được cao, nhiều giảng viên vẫn chưa đạt trình độ chuẩn (tức là chưa đạt trình độ Thạc sĩ). Thêm nữa, nhiều giảng viên còn yếu về năng lực chuyên môn, kỹ năng sư phạm, thiếu các hoạt động văn hóa – xã hội. Do đó, chưa đáp ứng được đòi hỏi ngày càng cao trong công tác đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, trong khi đội ngũ giảng viên được coi là nhân tố quyết định của sự thành công trong đào tạo.

Nguyên nhân của thực trạng trên bắt nguồn từ chỗ: Một là, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đặc biệt là về chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ nhà giáo và các nhà quản lý giáo dục chưa đồng bộ, hiệu lực chưa cao, cơ chế quản lý và chế độ đãi ngộ chưa tốt đối với thu hút giảng viên giỏi trong và ngoài nước. Hai là, nhiều cơ sở giáo dục hiện nay chưa chú trọng đến kế hoạch xây dựng và phát triển nguồn giảng viên trẻ kế cận.

2.4.2. Thực trạng nghiên cứu khoa học của giảng viên

Nghiên cứu khoa học có vai trò quan trọng trong việc nâng cao trình độ khoa học của người giảng viên, nó có tác dụng tích cực trong chất lượng đào tạo, đồng thời khẳng định thương hiệu của cơ sở giáo dục trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Nghiên cứu khoa học được coi là tiêu chí hàng đầu để đánh giá thành tích của mỗi giảng viên của các cơ sở giáo dục trên thế giới, nhưng đối với Việt Nam hiện nay, nhiều trường đại học chưa quan tâm vấn đề này.

Trong thời gian qua, hoạt động nghiên cứu khoa học ở nhiều trường đại học thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau kể cả trường công lẫn trường tư còn yếu cả về chất lượng và số lượng, hoạt động chính chủ yếu là giảng dạy. Bên cạnh những đóng góp đáng kể vào thành tích chung của nhà trường như: Hệ thống giáo trình, đề cương bài giảng, tài liệu tham khảo khá đầy đủ và có chất lượng tốt phục vụ công tác giáo dục, đào tạo, ngay trong một giáo trình môn học hay một bài giảng cũng là kết tinh của quá trình nghiên cứu khoa học. Không chỉ phục vụ công tác giảng dạy, nghiên cứu khoa học trong nhà trường còn đáp ứng nhu cầu mà xã hội và nền kinh tế đòi hỏi như chế tạo các sản phẩm có chất lượng, chế tạo máy móc công cụ… để phục vụ sản xuất, kinh doanh.

Theo thống kê, số bài báo đăng trên các tạp chí chuyên ngành trong nước hoặc các công trình được công bố ở các cấp độ khác nhau trên đầu giảng viên đại học cho thấy, có rất nhiều giảng viên đại học có học vị tiến sĩ, phó giáo sư hoặc tham gia giảng dạy rất lâu năm nhưng hầu như không có được nhiều công trình nghiên cứu tương xứng hoặc chưa thực hiện được một công trình nào. Thêm nữa, số trường cơ sở giáo dục đại học có bài báo được công nhận quốc tế (có bài báo ISI/SCOPUS) rất khiêm tốn, mặc dù, số lượng giảng viên và chức danh khoa học tương đối lớn.

Nhìn chung, số lượng các công trình nghiên cứu khoa học của giảng viên tại các cơ sở đào tạo đại học đều ít, chất lượng chưa cao, chưa tương xứng với tiềm năng của họ. Nguyên nhân của thực trạng đó, trước hết, do năng lực nghiên cứu của giảng viên đặc biệt là giảng viên trẻ còn hạn chế bởi cả lý do khách quan và chủ quan (Phần vì tiềm lực khoa học còn ít, kinh nghiệm nghiên cứu chưa nhiều; phần vì bận rộn với giờ giảng trên lớp, với học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, nâng cao ngoại ngữ, tin học), cho nên thiếu các công trình nghiên cứu làm ảnh hưởng đến nhiệm vụ của người giảng viên, trong khi đó, giảng dạy và nghiên cứu khoa học luôn là nhiệm vụ kép của người giảng viên đại học. Thứ hai, do nhận thức chưa đầy đủ của một số giảng viên về vai trò và lợi ích của nghiên cứu khoa học trong quá trình công tác của họ. Thứ ba, phần lớn giảng viên đại học chưa thực sự nghiêm túc, say mê với hoạt động nghiên cứu khoa học, cho nên tình trạng giảng viên nghiên cứu khoa học mang tính chất đối phó để có đủ giờ định mức còn diễn ra khá phổ biến. Thứ tư, bệnh thành tích, hình thức trong nghiên cứu khoa học cũng khá phổ biến trong nghiên cứu khoa học, nên nhiều công trình khoa học chưa có chất lượng cao.

2.5. Nguyên nhân cơ bản ảnh hưởng đến động lực làm việc của giảng viên hiện nay

          Quá trình thực hiện tự chủ giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay đã và đang triển khai tại nhiều cơ sở giáo dục đại học. Qua 3 năm triển khai Nghị quyết 77, năm 2017, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tiến hành khảo sát thực tế, tổ chức Hội nghị tổng kết đánh giá kết quả thực hiện, cụ thể: Tiến hành khảo sát thực tế tại 27 trường, trong đó có 19 trường đã được giao thí điểm tự chủ (gồm 12 trường tự chủ trên 24 tháng, 7 trường tự chủ dưới 24 tháng tính đến tháng 6/2017) và 8 trường chưa tự chủ để đối sánh kết quả. Kết quả cho thấy, Nghị quyết 77 đã tạo điều kiện cho các trường công lập khi cam kết tự đảm bảo toàn bộ kinh phí hoạt động chi thường xuyên và chi đầu tư thì được thực hiện tự chủ về tất cả các phương diện: đào tạo và nghiên cứu khoa học; tổ chức bộ máy và nhân sự; chính sách học bổng, học phí đối với sinh viên đối tượng chính sách; đầu tư, mua sắm. Thực tế cho thấy việc thực hiện tự chủ tại các trường bước đầu đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ, giúp giảm bớt các thủ tục hành chính, tăng tính chủ động, linh hoạt trong các tổ chức thực hiện hoạt động của nhà trường. Mô hình thí điểm tự chủ bước đầu được đánh giá tích cực, các trường đã có những thành tựu nhất định và được xã hội công nhận.

Thực tiễn đã chứng minh, một trường đại học muốn tuyển sinh được nhiều sinh viên, học viên, nghiên cứu sinh cần đảm bảo những người học giỏi nghề và dễ dàng trong tìm kiếm việc làm. Đây có thể coi là mắt xích quan trọng để xây dựng và phát triển nhà trường đại học. Theo đó, không cần phải dành quá nhiều thời gian, công sức và tiền bạc cho công tác tuyển sinh mà cơ sở giáo dục đó vẫn tuyển sinh đủ và thậm chí vượt định mức. Chất lượng đầu vào cao sẽ là nguyên nhân dẫn chủ yếu quyết định đến việc đào tạo ra những “sản phẩm” chất lượng cao. Tuyển sinh tốt sẽ tạo nhiều việc làm cho cán bộ, giảng viên, thu nhập ắt hẳn sẽ tăng lên. Khi tài chính tốt, các cơ sở giáo dục đại học sẽ dùng ngân sách nhà trường hỗ trợ cho giảng viên học tập nâng cao trình độ, nhà trường chủ động trong phân bổ ngân sách và sử dụng ngân sách trong nghiên cứu khoa học thúc đẩy số đề tài nghiên cứu tăng lên cả số lượng và chất lượng. Từ đó sẽ tạo động lực cho các cán bộ, giảng viên, nhân viên trong cơ sở giáo dục đại học đó không ngừng cống hiến trong quá trình xây dựng và phát triển nhà trường đại học.

Bên cạnh đó, không ít các cơ sở giáo dục đại học trong nước đang gặp phải nhiều khó khăn trong công tác tuyển sinh. Nhiều trường đại học vì muốn thu hút sinh viên vào học và để sinh viên dễ xin việc nên đã có suy nghĩ tạo điều kiện cho các sinh viên của mình lấy được tấm bằng một cách dễ dãi. Điều này càng phổ biến hơn trong những trường đại học top dưới, nơi mà nhà trường có suy nghĩ theo kiểu thí sinh kém mới vào đây, dạy những cái cao siêu sinh viên không thể tiếp thu được và không thể tốt nghiệp ra trường được. Một số nhà trường còn yêu cầu tỷ lệ sinh viên khá, giỏi, tỷ lệ sinh viên thi đạt lần 1 là bao nhiêu phần trăm và coi đó là thước đo đánh giá chất lượng giảng dạy của thầy cô nhưng lại không quan tâm tới năng lực và thái độ của sinh viên trong quá trình học tập. Đặc biệt, nếu giảng viên có tư duy chấm đúng, coi chặt là có thể bị khoa và nhà trường nhắc nhở vì gây khó dễ cho sinh viên. Điều này đã dẫn đến một số trường hợp sinh viên đề nghị thay giảng viên vì học giảng viên đó gây áp lực về bài vở hay trả lời câu hỏi trên lớp, và đặc biệt hơn là nhà trường lại đồng ý với quan điểm này của sinh viên. Cuối cùng, những sinh viên sau khi tốt nghiệp hầu hết đều thất nghiệp hoặc thất bại mặc dù cầm những tấm bằng khá, giỏi. Kết quả là càng khó tuyển sinh vì bị mất danh tiếng và nguy cơ đóng cửa rất cao.

Những luẩn quẩn trong tuyển sinh sẽ dẫn đến hàng loạt các hệ lụy trong công tác tổ chức của nhà trường đại học. Hiện nay, một thực tế đã và đang xuất hiện tình trạng nhân lực của các cơ sở giáo dục đại học có thu nhập thấp di động sang các cơ sở đại học có thu nhập tốt hơn. Tình trạng này xuất hiện chủ yếu ở những cán bộ, giảng viên có trình độ chuyên môn cao, tâm huyết với nghề, có thâm niên nghề nghiệp và có nhiều công trình nghiên cứu khoa học chất lượng. Với những cơ sở giáo dục đại học khó khăn trong tuyển sinh, định mức giảng dạy của giảng viên không được đảm bảo, nhiều giảng viên bị trừ lương hằng tháng để bù vào số tiết thiếu hụt trong định mức giảng dạy năm học. Nghiên cứu khoa học của giảng viên cũng không được động viên, bù đắp xứng đáng với công sức mà họ đã bỏ ra.

Có không ít các cơ sở giáo dục đại học đang thực hiện giảm biên, với lý do là khi ngân sách hạn hẹp, khi tuyển sinh kém, khi các nguồn thu của nhà trường bị giảm,… cho nên cắt giảm là biện pháp hữu hiệu nhất. Theo lập luận của một số đại diện lãnh đạo, giảm nhân sự tức là giảm gánh nặng tài chính cho nhà trường, chỉ có như vậy nhà trường mới có khả năng tập trung cho những mục tiêu phát triển khác. Tuy vậy, bài toàn giảm nhân sự trong các cơ sở giáo dục đại không phải là bài toán đơn giản vì nó còn liên quan đến rất nhiều vấn đề khác. Theo đó, các nhà trường rà soát các vị trí việc làm, giảm các khoản thu nhập tăng thêm, cắt kinh phí hỗ trợ coi thi, chấm thi, thừa giờ,… Đứng trước hàng loạt những khó khăn đó, một số cán bộ quản lý, giảng viên có trình độ cao, nhân viên có kinh nghiệm sẵn sàng xin chuyển công tác sang các đơn vị mà họ cho là “dễ thở” hơn. Từ đây, nảy ra một vấn đề, đó là, những cán bộ, giảng viên, nhân viên “hạt giống” có xu hướng lần lượt rời cơ sở giáo dục trong niềm tiếc nuối của người học, và rất có thể những người gắn bó ở lại chưa chắc đã trở thành những người làm việc tốt nhất, có trách nhiệm nhất để giúp cho nhà trường đó phát triển. Thay vì đó, nếu những người đứng đầu các cơ sở giáo dục nhận thức rõ và hành động phù hợp thông qua các chính sách “trọng người tài” sẽ tận dụng được nhiều lợi thế trong quá trình phát triển.

“Có thực mới vực được đạo” – khi cuộc sống giảng viên vẫn còn những lo toan về “cơm – áo – gạo – tiền” thì những bài giảng chất lượng, những công trình khoa học tầm cỡ cũng bị lấn át bởi mưu sinh. Nhìn chung, mức thu nhập của giáo dục là thấp so với các ngành nghề khác trong xã hội, nhưng nếu thu nhập không đảm bảo cho đời sống thường ngày thì ắt hẳn họ phải tìm kiếm những cơ hội mới với những mức thu nhập hấp dẫn hơn. Từ đây, đặt ra một số vấn đề:

Thứ nhất, khi thiếu động lực làm việc, giảng viên sẽ tìm cách “di động nghề nghiệp”, tức là họ có thể chuyển nghề này sang nghề khác, hoặc có thể chuyển công tác từ đơn vị này sang đơn vị khác mà vẫn giữ nguyên ngạch, bậc của mình. Khi đó sẽ ảnh hưởng đến cơ cấu nghề trong xã hội, kéo theo chuyển dịch cơ cấu lao động. Nhiều giảng viên có trình độ chuyên môn cao, có nhiều công trình nghiên cứu khoa học tốt đã chuyển sang hoàn toàn một công việc mới. Có thể ở lĩnh vực mới đó, họ phát huy được những năng lực cá nhân vốn tiềm ẩn và đến lúc này mới được bộc lộ. Song, điều này sẽ lãng phí quá trình đào tạo của Nhà nước, ảnh hưởng đến dư luận xã hội theo hướng không tốt trong ngành giáo dục.

Thứ hai, những giảng viên có chuyên môn tốt, có kinh nghiệm, có năng lực tốt chuyển sang các cơ sở giáo dục đại học lớn sẽ là cơ hội tốt cho họ, tạo động lực thúc đẩy họ phát triển trong sự nghiệp trồng người và họ càng có cơ hội ghi thêm thành tựu mới trong nghiên cứu và giảng dạy. Song, điều đó chắc chắn càng tạo ra sự khác biệt giữa các cơ sở đại học trong cả nước. Các trường lớn, có danh tiếng, điều kiện cơ sở vật chất tốt, đội ngũ giảng viên tốt… tuyển sinh ngày càng tốt. Ngược lại, các trường đại học nhỏ (cụ thể các trường đại học địa phương) sẽ có nguy cơ ngày càng bị thu hẹp trong tuyển sinh.

2.6. Một vài kiến nghị

Trước thực tế nhiều giảng viên (nhất là giảng viên chất lượng cao) có xu hướng thiếu động lực làm việc tại các cơ sở giáo dục đại học tuyển sinh không tốt, họ có nhu cầu “di động nghề nghiệp” sang các cơ sở giáo dục tốt hơn hoặc sang các lĩnh vực có thu nhập cao hơn, theo chúng tôi, các cơ sở giáo dục đại học nhỏ (cơ sở giáo dục đại học địa phương) cần thực hiện một số biện pháp sau:

Thứ nhất, các cơ sở giáo dục địa phương cần thực hiện tốt công tác tuyển sinh, đảm bảo và vượt chỉ tiêu được giao. Chỉ khi làm tốt công tác tuyển sinh mới tạo nhiều việc làm, đảm bảo thu nhập cho cán bộ, giảng viên. Muốn vậy, các cơ sở giáo dục đại học này cần nâng cao chất lượng đào tạo của Nhà trường, tạo thương hiệu, là địa chỉ uy tín trong đào tạo. Cụ thể:

– Tiến hành đổi mới nội dung và phương pháp đào tạo, xây dựng chương trình đào tạo theo CDIO chuyển từ tiếp cận theo nội dung sang tiếp cận theo chuẩn đầu ra, xác định rõ chuẩn kiến thức, kỹ năng và thái độ mà sinh viên phải/cần đạt được trong từng môn học và cả chương trình đào tạo (đây cũng chính là cam kết của giảng viên và Nhà trường với sinh viên trong hoạt động đào tạo) đáp ứng với nhu cầu của người học và đáp ứng nhu cầu của xã hội;

– Đổi mới trong công tác kiểm tra, đánh giá đồng bộ với đổi mới nội dung chương trình, độc lập giữa hoạt động giảng dạy và đánh giá;

– Tăng cường đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất phục vụ đào tạo;

– Gắn kết chặt chẽ giữa hoạt động đào tạo với nghiên cứu khoa học của sinh viên và giảng viên;

– Sinh viên có việc làm sau khi ra trường chiếm tỷ lệ cao.

Thứ hai, cần có chính sách “trọng dụng nhân tài” thông qua cơ chế thu hút, đãi ngộ hợp lý và đúng thời điểm đối với các giảng viên có trình độ cao. Bên cạnh đó, hỗ trợ và tạo điều kiện cho đội ngũ giảng viên trẻ để học tập, nâng cao trình độ, khen thưởng kịp thời với những giảng viên công bố các bài viết trên tạp chí ISI/SCOPUS, tạo môi trường làm việc vui vẻ, dân chủ trong các buổi trao đổi học thuật…

  1. Kết luận

Tự chủ đại học hiện nay là cơ hội thể hiện vai trò chủ thể của trường đại học trên thị trường giáo dục đại học. Mỗi cơ sở giáo dục đại học có chiến lược phát triển riêng thông qua nội dung chương trình giảng dạy, chất lượng các mặt hoạt động (nghiên cứu khoa học; hợp tác trong nước và quốc tế…). Quyền tự chủ của các cơ sở giáo dục và đào tạo thường có bốn nội dung cơ bản là: Tự chủ về tổ chức bộ máy, biên chế, nhân sự; Tự chủ về thực hiện tuyển sinh, chương trình, giáo trình, quy trình đào tạo; Tự chủ về tài chính; Tự chủ về liên kết, hợp tác trong đào tạo. Trong đó, tự chủ về tài chính là vấn đề quan trọng nhất.

Các cơ sở giáo dục đại học cần nhận thức động lực thu hút giảng viên bởi lẽ giảng viên chính là nhân tố cốt lõi trong thành công của tự chủ giáo dục đại học hiện nay. Cần có những chính sách hợp lý để nâng cao đời sống vật chất và đời sống tinh thần của các cán bộ quản lý, giảng viên cơ hữu và nhân viên trong các nhà trường. Khi mức sống của cán bộ, giảng viên tốt hơn, đảm bảo cho họ “sống khỏe” bằng chính nghề của họ, chắc chắn các cơ sở giáo dục đại học sẽ “giữ chân” được những người giỏi, người tài, nhất là các trường đại học ở TOP dưới hiện nay. Và, ngược lại, không coi trọng các nhân tố cốt lõi đó, các cơ sở đại học này sẽ thiếu nguồn lực tinh nhuệ. Để giải quyết vấn đề đó, không thể khác được ngoài tuyển sinh.

_______________

            Tài liệu tham khảo
  1. Bộ GD-ĐT (2017), Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học trong các cơ sở giáo dục đại học giai đoạn 2017-2025, https://moet.gov.vn/giaoducquocdan/khoa-hoc-va-cong-nghe.
  2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, Hà Nội.
  3. Quốc hội khóa XIV – Ủy ban văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng (2018), Nguyễn Thu Hạnh, Đổi mới công tác bồi dưỡng đội ngũ giảng viên đại học ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, Kỷ yếu hội thảo giáo dục năm 2018 – Giáo dục đại học – chuẩn hóa và hội nhập quốc tế, Nxb. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, tr.473-tr.478.
  4. Bruno Aguilera Brachet (2012),  A higher education  for the 21th centery: European an US approaches, CES (Center  for European Studies).
  5. Varghese, N. V., & Martin, M (2013). Governance reforms and university autonomy in Asia, Paris: International Institute for Educational Planning.

Nguyễn Thị Nội

Trường Đại học Kinh tế và Quản trị Kinh doanh – Đại học Thái Nguyên