Mô hình Đại học đa lĩnh vực và việc triển khai xây dựng ở nước ta – GS. Lâm Quang Thiệp

Ngày 30/07/2021

GS Lâm Quang Thiệp, nguyên Vụ trưởng Giáo dục đại học (Bộ Giáo dục và Đào tạo)

Giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại học (GDĐH) luôn luôn và hiện đang là một lĩnh vực mà cả xã hội quan tâm. Nhân dịp kỷ nniệm 30 năm đổi mới GDĐH 1987-2017, việc nhìn lại tiến trình đổi mới để điều chỉnh và tiếp tục triển khai trong tương lailà rất cần thiết. Một trong những chủ trương đổi mới quan trọng là xây dựng các cơ sở GDĐH theo mô hình đại học đa lĩnh vựcnhằm thực hiện tốt hoạt động đào tạo, nghiên cứu và phục vụ xã hội.

Bài viết này sẽ bàn về chủ đề chủ đề đó.

Hệ thống GDĐH nước ta trước thời kỳ đổi mới

Sau năm 1975 hệ thống GDĐH của cả nước ta được xây dựng theo mô hình Liên Xô. Vậy mô hình GDĐH của Liên Xô có những đặc điểm gì?  

Hệ thống GDĐH Liên Xô chịu ảnh hưởng của GDĐH Pháp và Đức, đồng thời được định định hình theo kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Có thể nói hệ thống đó có các đặc điểm chính như sau.
1) Hệ thống trường đại học tách biệt với hệ thống các viện nghiên cứu khoa học mạnh, mà trên cùng của hệ thống nghiên cứu là Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô;

2) Phần lớn các trường đại học là các trường đơn ngành hoặc đơn lĩnh vực.

3) Quy trình đào to đại học trước tiến sĩ thường thiết kế liền một mạch, 4 đến 6 năm, theo hướng chuyên ngành rất hẹp.

4) Điều hành hệ thống theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung: chỉ tiêu tuyển sinh, kinh phí đào rạo, chương trình học đều được quyết định từ Nhà nước, sinh viên tốt nghiệp cũng được Nhà nước phân công vào các cơ sở kinh tế quốc doanh, tập thể hoặc biên chế nhà nước.

Hệ thống GDĐH nói trên của Liên Xô đã có lúc phát triển tốt, có đóng góp quan trọng để nâng cao kỹ thuật quân sự phục vụ cuộc kháng chiến chống phát xít, đặc biệt trong việc phóng vệ tinh nhân tạo đầu tiên của thế giới năm 1957 và công cuộc nghiên cứu vũ trụ.

Tuy nhiên, sau khi Liên Xô tan rã, Liên bang Nga chuyển đổi sang kinh tế thị trường, GDĐH cũng đổi mới: phần lớn các trường đại học chuyển sang mô hình đa lĩnh vực, thay đổi quy trình đào tạo liền một mạch và chuyên môn hẹp thành quy trình đa giai đoạn, theo diện rộng. Chính chuyển hướng như vậy nên Liên bang Nga đã gia nhập quá trình Bologna đổi mới GDĐH của EU, nhằm xây dựng một hệ thống GDĐH tương đồng với Hoa Kỳ.

Hệ thống GDĐH Việt Nam trước thời đổi mới hoàn toàn giống như mô hình Liên Xô đã mô tả trên đây. Từ khi đổi mới GDĐH nước ta đã dần dần chuyển đổi sang mô hình phù hợp hơn với nền kinh tế thị trường và hội nhập với thế giới. Dưới đây là một số đặc điểm của chương trình đào tạo và mô hình trường đại học được xây dựng ở nước ta vào thập niên 1990 về chương trình đào tạo đại học đổi mới

Như đã nói trên đây, chương trình đào tạo bậc ĐH trước tiến sĩ của Liên Xô được thiết kế liền một mạch, theo ngành hẹp, để chuẩn bị nhân lực cho nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung: sinh viên tốt nghiệp được phân công làm việc theo các ngành nghề xác định trong các cơ sở kinh tế quốc doanh và biên chế nhà nước. Cơ cấu chương trình đào tạo thường thu hẹp dần theo các năm học, ví dụ chương trình đào tạo ngành “điện dân dụng”, từ các môn cơ bản (như: vật lý), tiếp theo là các môn cơ sở (như: kỹ thuật điện) cho đến các môn chuyên ngành về điện dân dụng. Các môn cơ bản và cơ sở đều nhằm phục vụ cho việc đào tạo các môn chuyên ngành. Từ khi đổi mới, chương trình đào tạo bậc cử nhân của ta được thiết kế theo ngành rộng (để sinh viên tốt nghiệp dễ tìm việc làm trong thị trường lao động). Mặt khác, có thể nói chương trình bậc cử nhân không chỉ nhằm đào tạo cho sinh viên một nghề, tức trở thành một con người-công cụ phục vụ phát triển kinh tế xã hội, mà còn giáo dục cho sinh viên thành một con người-mục đích, con người có tầm nhìn, có phương pháp tư duy và tình cảm nhân văn. Do đó cơ cấu chương trình cử nhân có hai phần: phần giáo dục đại cương (general education) và phần giáo dục chuyên nghiệp (professional education). Phần giáo dục đại cương (GDĐC) chính là nhằm giáo dục con người-mục đích nói trên.

Có nhiều định nghĩa khác nhau đối với GDĐC, nhưng có thể tóm tắt như sau: “GDĐC là một cách tiếp cận học tập tăng cường năng lực và chuẩn bị cho từng cá thể ứng đáp với sự phức tạp, đa dạng và thay đổi.  Nó cung cấp cho sinh viên một nền kiến thức rộng về thế giới (khoa học, văn hóa và xã hội), giúp sinh viên phát triển ý thức về trách nhiệm xã hội cũng như các kỹ năng thực tiễn và tri thức mạnh mẽ như giao tiếp, phân tích và giải quyết vấn đề, cũng như thể hiện một năng lực áp dụng kiến thức và kỹ năng vào đời sống thực tế. [Association of American Colleges & Universities, 2017]. Ví dụ sau đây cho thấy các trường đại học Hoa Kỳ rất coi trọng phần GDĐC. Hiệp hội Các trường Đại học Miền Nam Hoa Kỳ về kiểm định chất lượng đã đưa ra một trong những điều kiện để được gia nhập hội như sau: “Tất cả các chương trình đào tạo đại học của nhà trường phải có một phần đủ lớn các môn học GĐĐC ở trình độ đại học: chương trình hai năm (dẫn đến bằng phó cử nhân – associate degree) có ít nhất 15 tín chỉ, chương trình cử nhân có ít nhất 30 tín chỉ. Các giáo trình không được tập trung hẹp vào các kỹ năng, kỹ thuật và quy trình riêng biệt đối với một nghề xác định.” [Handbook of Accreditation, 1988].

Các Chuyên gia GDĐH phương Tây cho rằng trong chương trình đào tạo cấp đại học của Liên Xô trước đây không có phần GDĐC, chỉ có phần giáo dục ý thức hệ, vì chỉ chú ý đào tạo những con người công cụ hơn là con người phát triển toàn diện. [Levin A., 1985].  

Về mô hình trường đại học đa lĩnh vực được dự kiến xây dựng

Ở Hoa Kỳ có khoảng 4500 trường đại học và cao đẳng, chia làm 2 nhóm lớn, khoảng  2800 trường đại học bốn năm(four-year colleges) và khoảng 1700 trường đại học hai năm(two-year colleges). ”Đại học 4 năm” là thuật ngữ để gọi chung các trường có đào tạo bằng cử nhân (bachelor) trở lên. ”Đại học 2 năm” là thuật ngữ để gọi chung các trường cao đẳng (junior college) hoặc cao đẳng cộng đồng (community college), đó là các trường cung cấp các chương trình học nghề sau trung học hoặc các chương trình chuyển tiếp (transfer) cấp các loại associate degree để có thể học tiếp ở các trường đại học bốn năm.

Phần lớn các trường đại học 4 năm ở Hoa Kỳ được tổ chức theo mô hình university, tức là trường đại học đa lĩnh vực, một mô hình trường đại học có hiệu quả cao nhất. Sở dĩ mô hình đại học đa lĩnh vực có hiệu quả cao nhất vì các lý do sau đây: Một là, các đại học đa lĩnh vực sẽ đào tạo tốt phần GDĐC và các môn khoa học cơ bản, phần rất quan trọng của chương trình bậc cử nhân, chỉ trong các university mới có đủ đội ngũ giáo sư, giảng viên có trình độ cao để giảng dạy tốt mảng kiến thc này. Hai là đại học đa lĩnh vực có ưu thế về nghiên cứu và phục vụ xã hội, vì ngày nay các đề tài nghiên cứu lớn đều là các đề tài có tính liên ngành, các hoạt động phục vụ xã hội cũng vậy. Ba là, đại học đa lĩnh vực bao gồm nhiều ngành đào tạo khác nhau dễ đối phó với sự biến động về nhu cầu nghề nghiệp trong nền kinh tế thị trường.  

Chính vì ưu thế của mô hình đại học đa lĩnh vực nên khi chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường, nhiều nước đã chuyển từ trường đại học đơn ngành hoặc đơn lĩnh vực sang đại học đa lĩnh vực. Ở Liên bang Nga, phần lớn các đại học đơn ngành đơn lĩnh vực thời Liên Xô cũ với tên gọi “inxtitut” chuyển sang mô hình đa lĩnh vực và đặt lại tên là “universitet” hoặc “academia”. Ở Trung Quốc Đại học Bắc Kinh vốn bao gồm các lĩnh vực khoa học tự nhiên và khoa học xã hội kiểu “universitet” của Liên Xô cũ, cũng như

Đại học Thanh Hoa vốn là một đại học bách khoa với lĩnh vực kỹ thuật công nghiệp, đều đã mở bổ sung thêm nhiều lĩnh vực khác để trở thành các “university” đa lĩnh vực theo kiểu phương Tây.

Vào đầu thập niên 1990, khi Chính phủ chủ trương xây dựng một số trường đại học mạnh cho nước ta Thủ tướng Võ Văn Kiệt yêu cầu Bộ GD&ĐT thiết kế các đại học này và Bộ đã đề nghị xây dựng hai đại học quốc gia Hà Nội và thành phố HChí Minh, ba đại học vùng Thái Nguyên, Huế, Đà Nẵng theo mô hình đại học đa lĩnh vực [Hiệp hội.., 2016]. Tuy nhiên việc thực hiện không diễn ra đúng như thiết kế, tình trạng sẽ được bàn dưới

Quá trình xây dựng các đại học quốc gia, đại học vùng và những vấn đề nảy sinh

Việc triển khai xây dựng các đại học quốc gia và đại học vùng theo mô hình đại học đa lĩnh vực diễn ra không được suôn sẻ, theo nhiều tình huống khác nhau.

Đối với ĐHQG Hà Nội, Nghị định 97/CP ngày 10/12/1993 đã quyết định nhập Đại học Tổng hợp Hà Nội với Đại học Sư phạm Hà Nội và Đại học Ngoại ngữ Hà Nội. Nghị định này được thực hiện rất khó khăn vì có nhiều ý kiến khác nhau. Đại học Tổng hợp và Đại học Sư phạm được nhập một cách máy móc nhưng không “hòa hợp” được. Một trong các phản ứng gay gắt là ý kiến bảo vệ kiểu trường Đại học Sư phạm chỉ đào tạo giáo viên theo mô hình đơn lĩnh vực của Liên Xô. Sau một thời gian nhập mà không hòa, năm 2000 trường Đại học Sư phạm lại được tách ra khỏi ĐHQG Hà Nội.

Đối với ĐHQG thành phố Hồ Chí Minh một tình huống khác đã diễn ra. Vào đầu thời kỳ đổi mới, khoảng năm 1988,quy mô các trường đại học nước ta đều rất nhỏ bé, thường dưới một nghìn sinh viên, nên phương án nhập 9 trường đại học trên địa bàn thành phố HCM để thành lập ĐHQG thành phố HCM đã được đề xuất, và Nghị định 16/CP của Chính phủ ngày 27/1 /1995 đã quyết định trên tinh thần đó. Tuy nhiên, đến khi thực hiện các phương án này vào năm 1995 thì quy mô các trường đại học đơn ngành đã tăng lên rất nhiều, do đó việc nhập quá nhiều trường đại học đơn ngành sẽ tạo nên một đại học đa lĩnh vực quá lớn. Đó là lý do mà vào năm 2001 Chính phủ quyết định tổ chức lại và giảm bớt quy mô của ĐHQG thành phố HCM bằng cách đưa ra ngoài bớt một số trường thành viên.

Những khó khăn về tổ chức trong quá trình thành lập các đại học quốc gia và đại học vùng cũng đã dẫn đến một hệ quả đáng tiếc, đó là: các đại học đa lĩnh vực không giữ được mô hình university như đã thiết kế. Một trong các lý do thực chất làm cho các trường thành viên phản đối khi được sáp nhập, đó là khả năng mất nhiều “ghế” quản lý, và quan niệm “trường” bị hạ cấp thành khoa. Các nhà tổ chức phải thỏa hiệp bằng cách hứa hẹn giữ nguyên vị trí các trường thành viên, không thay đổi các chức vụ quản lý trước đây, do đó các quy chế được xây dựng theo mô hình các đại học hai cấp. Theo mô hình này, hoạt động trong các trường thành viên hầu như vẫn giữ như cũ, kết nối giữa các trường thành viên với nhau rất lỏng lẻo, và cấp quản lý trên cùng thực hiện một cơ chế quản lý trung gian gián tiếp. Chính vì lẽ đó, nhiều ý kiến cho rằng bộ máy quản lý trên cùng của hai ĐHQG đóng vai trò như là hai bộ ĐH nhỏ. Do vậy các đại học hai cấp ở nước ta hầu như không phát huy được các thế mạnh của university đã nêu trên đây. Trước hết, chương trình đào tạo của các trường thành viên là hoàn toàn độc lập với nhaunêu ưu thế về chất lượng đào tạo mảng GDĐC và các môn khoa học cơ bản không thể hiện được. Việc liên kết trong nghiên cứu và phục vụ xã hội cũng rất khó thực hiện.

Về tên của các đại học quốc gia và đại học vùng cũng có vấn đề. Để chỉ loại hình trường đó, các văn bản luật pháp gọi là “đại học”, trong khi Bộ GD&ĐT đã đề nghị gọi là “viện đại học” giống như “Viện đại học Đông Dương” từ năm 1906 [Hòa Giang Đỗ Hữu Nghiêm,2017] và các đại học đa lĩnh vực ở Miền Nam trước năm 1975 [Lê Văn Giạng, 2003]. Nhưng trong thực tế, xã hội đã không “dành riêng” thuật ngữ “đại học” để gọi các đại học đa lĩnh vực, mà đa số trường hợp vẫn gọi các đại học đơn lĩnh vực khác là “đại học” khi lược bỏ chữ “trường” (ví dụ Đại học Bách khoa Hà Nội). Cũng cần nói thêm về tên tiếng Anh của hai đại học quốc gia. Ở Đại học quốc gia Hà Nội có người cho rằng mô hình đại học quốc gia của ta giống mô hình UC (University of California) và CSU (California State University) của bang Californi, Hoa Kỳ, nên đặt tên cho Đại học quốc gia Hà Nội theo kiểu UC, CSU, tức “Đại học quốc gia Việt Nam, Hà Nội”. Sau đó Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh cũng buộc phải đặt tên tương tự, là “Đại học quốc gia Việt Nam, tp. Hồ Chí Minh”. Kiểu đặt tên này hoàn toàn không hợp lý, vì rằng hai đại học quốc gia tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh chẳng có mối liên hệ nào về mặt tổ chức như các hệ thống UC và CSU. Thực ra UC và CSU là các hệ thống university, mỗi một university trong hệ thống mang đủ tính ưu việt của loại hình university, còn các đại học quốc gia và đại học khu vực của ta là tập hợp các đại học đơn ngành hoặc đơn lĩnh vực, mỗi đại học thành viên tách biệt sẽ không còn tính ưu việt như đã nói trên đây. Một chi tiết khác về tên gọi bằng tiếng Anh của các đại học đa lĩnh vực nước ta: vì để giữ “tư thế” của mình, các trường đại học thành viên của các đại học hai cấp đều tự gọi mình là university (lẽ ra nên gọi là college hoặc faculty, vì đó là các trường đơn ngành hoặc đơn lĩnh vực), cho nên nhiều khách quốc tế không hiểu tại sao trong university lại có university!

Tóm lại, “mô hình đại học hai cấp” chỉ là một giải pháp tình thế trong quá trình xây dựng các đại học đa lĩnh vực chứ không phải mô hình của những người thiết kế mong muốn, mô hình này không giữ được thế mạnh của mô hình đại học đa lĩnh vực và làm nảy sinh một số vấn đề về tổ chức.

Liên quan với việc đổi mới hệ thống nhà trường đại học, Bộ GD&ĐT cũng đặt vấn đề đổi mới hệ thống đào tạo giáo viên, khắc phục xu hướng đào tạo giáo viên bằng một hệ thống sư phạm khép kín. Ý tưởng đào tạo giáo viên theo mô hình nối tiếp trong các đại học đa lĩnh vực được nêu ra: hai năm đầu sinh viên sư phạm được học chương trình khoa học cơ bản chuyên sâu chung với sinh viên khoa học, hai năm sau mới được đào tạo về sư phạm.  Giáo viên đào tạo theo mô hình này sẽ vững về chuyên môn hơn nên sẽ phát triển tốt hơn trong quá trình giảng dạy về sau. Mô hình này cũng giúp nhà trường dễ thích nghi hơn khi nhu cầu về giáo viên thay đổi. Việc thay đổi hệ thống đào tạo giáo viên được tóm tắt trong phương châm: “các trường sư phạm không chỉ đào tạo giáo viên, và giáo viên không chỉ được đào tạo ở các trường sư phạm”. Tuy nhiên ý tưởng về đào tạo giáo viên trong các đại học đa lĩnh vực bị phản đối rất nhiều bởi những người đã quen với mô hình đại học chuyên ngành theo kiểu Liên Xô. Vào những năm sau đó chỉ một số trường đại học sư phạm chuyển thành đại học đa lĩnh vực (Đại học Vinh, Đại học Quy nhơn, Đại học Hải phòng), còn các trường sư phạm lớn khác vẫn giữ mô hình đại học sư phạm đơn lĩnh vực khép kín. Việc không tuyển sinh được vào hệ thống các trường sư phạm sau kỳ thi vừa qua do nguồn cung giáo viên vượt quá nhu cầu đã làm bộc lộ rõ nhược điểm của mô hình đại học sư phạm đơn lĩnh vực khép kín.

Hai đại học quốc gia được nâng cấp quản lý trở thành trực thuộc Chính phủ nên các trường thành viên xem như trực thuộc ĐHQG, ngang với cấp bộ như cũ, do đó không tạo nên gay cấn lớn về quản lý. Các đại học vùng thì vẫn trực thuộc Bộ GD&ĐT, còn các trường thành viên trực thuộc đại học vùng, giảm một cấp so với trước khi sáp nhập. Nếu cấp đại học vùng được tổ chức như một cấp quản lý trung gian đối với các trường thành viên, không quản lý trực tiếp, thì nảy sinh vấn đề do hạ cấp. Từ khi thành lập đến nay gay cấn về quản lý đại học vùng luôn tồn tại, phần lớn các đại học thành viên đều muốn thoát khỏi đại học vùng để trở thành một trường độc lập. Mặt khác, cơ chế gắn kết lỏng lẻo theo hai cấp làm cho các trường thành viên của đại học vùng, vẫn là đại học đơn lĩnh vực, không phát huy được ưu thế của mô hình đại học đa lĩnh vực như đã nói trên đây.

Có thể thấy các vấn đề lớn về quản lý trong các đại học đa lĩnh vực ở nước ta nảy sinh chủ yếu là do sự sáp nhập. Ở các trường đại học đa lĩnh vực khác, hoặc là được thành lập theo mô hình đa lĩnh vực ngay từ đầu, hoặc do các trường đơn lĩnh vực phát triển lên mà thành, không có các vấn đề tương tự. Đại học Cần Thơ chính là một minh chứng: đó là trường đại học đa lĩnh vực duy nhất ở miền Nam không bị tách nhỏ thành các trường đơn ngành đơn lĩnh vực sau năm 1975, đã phát triển rất tốt. Còn Đại học Huế, ở trên một địa bàn mà trước năm 1975 vốn đã có Viện Đại học Huế đa lĩnh vực, nhưng đã được chia nhỏ sau 1975 trở thành các trường đơn lĩnh vực theo mô hình Liên Xô, thì khi sáp nhập lại vẫn nảy sinh vấn đề.

Nên chăng thay đổi mô hình đại học quốc gia và đại học vùng?

Đây là vấn đề rất lớn của Nhà nước, nằm ngoài ngoài tầm của bài viết này. Nhưng nếu nói đến mô hình nên chọn, thì chúng tôi vn nghĩ tốt hơn hết là làm sao để trong hệ thống GDĐH nước ta có các mô hình đại học đa lĩnh vực theo kiểu university thực s, không nên sử dụng mô hình đại học hai cấp. Muốn vậy, tùy theo điều kiện cụ thể nên xử lý một đại học hai cấp nào đó ở nước ta theo một trong hai giải pháp: 1) Cho phép các trường thành viên đơn ngành đơn lĩnh vực phát triển thành các university, và đại học hai cấp biến thành một tập đoàn các university với sự liên kết rất lỏng lẻo theo kiểu UC hoặc CSU của bang California, Hoa Kỳ; 2) Đại học hai cấp chuyển thành một university một cấp thực sự, thay đổi bộ phận điều phối trung gian thành cấp điều hành trực tiếp, toàn bộ university có một chương trình đào tạo chung, như kiểu Trường Đại học Cần Thơvà một số đại học đa lĩnh vực khác ở nước ta.

Cùng với chủ trương trao quyền tự chủ cao cho các trường đai học và xóa bỏ dần cơ chế bộ chủ quản, hy vọng hệ thống GDĐH nước ta sẽ phát triển bền vững.

Hà Nội, tháng 10 năm 2017

__________________________

TÀI LIỆU DẪN

2. Handbook of Accreditation,1988. Accrediting Commission for Senior Colleges and Universities- Western Assosiation of Schools and Colleges, January 1988.
3. Arthur Levine, 1985. Handbook on Undergraduate Curriculum. San Francissco: Jossey Bass.
4. Hiệp hội các trường đại học, cao đẳng Việt Nam, 2017. Một số tư liệu đổi mới giáo dục đại học Việt Nam giai ddoanj1987-1997. NXB Giáo dục.
5. Hòa Giang Đỗ Hữu Nghiêm , 2017. Đại học Việt Nam – thời khai sinh.http://ttntt.free.fr/archive/huunghiemDo.html; 2017.
6. Lê Văn Giạng, 2003. Lịch sử giản lược hơn 1000 năm nền giáo dục Việt Nam – NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

____________________________________