BÁO CÁO TỔNG KẾT HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “NGUỒN LỰC ĐẦU TƯ CHO GIÁO DỤC ĐẠI HỌC TRONG BỐI CẢNH TỰ CHỦ”
Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam phối hợp với Trường Đại học Cần Thơ tổ chức thành công Hội thảo khoa học quốc gia “Nguồn lực đầu tư cho giáo dục đại học trong bối cảnh tự chủ”. Ban Tổ chức Hội thảo báo cáo về công tác tổ chức và kết quả Hội thảo như sau.
1.Kỷ yếu Hội thảo
Hội thảo đã nhận được 101 bài tham luận của các chuyên gia giáo dục và giảng viên gửi đến từ các trường đại học, cao đẳng trên cả nước. Ban biên tập đã cân nhắc, lựa chọn được 91 bài có nội dung tập trung vào 7 chủ đề chính của hội thảo để đăng kỷ yếu:
Chủ đề 1: Cơ chế, chính sách cần hoàn thiện, tạo hành lang pháp lý thuận lợi vào việc đầu tư nguồn lực cho giáo dục đại học trong bối cảnh tự chủ: 7 bài
Chủ đề 2: Nguồn lực tài chính cho giáo dục đại học trong bối cảnh tự chủ: 20 bài
Chủ đề 3: Nguồn lực con người cho giáo dục đại học trong bối cảnh tự chủ: 24 bài
Chủ đề 4: Nguồn lực ý tưởng cho giáo dục đại học trong bối cảnh tự chủ: 2 bài
Chủ đề 5: Nguồn lực công nghệ cho giáo dục đại học trong bối cảnh tự chủ: 8 bài
Chủ đề 6: Tăng cường hợp tác quốc tế trong giáo dục đại học: 11 bài
Chủ đề 7: Các vấn đề khác có liên quan khác: 19 bài
- Nội dung tóm tắt sơ lược về các chủ đề tham luận:
Chủ đề 1: Cơ chế, chính sách cần hoàn thiện, tạo hành lang pháp lý thuận lợi vào việc đầu tư nguồn lực cho giáo dục đại học trong bối cảnh tự chủ
Tự chủ đại học là một yêu cầu tất yếu nhằm bảo đảm chất lượng và thể hiện trách nhiệm của đại học trước xã hội. Việc bảo đảm tự chủ đại học đúng nghĩa có tầm quan trọng đặc biệt trong sự phát triển hệ thống giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay và cần được sự quan tâm ủng hộ của hệ thống quản lý nhà nước, của xã hội và của chính hệ thống đại học.
Ở chủ đề này, các tác gỉa đã đưa ra những giải pháp thực tiễn nhằm tăng cường huy động, thu hút nguồn lực đầu tư phát triển đại học trong bối cảnh tự chủ hiện nay như:
– Hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo sự đồng bộ, thống nhất để bảo đảm tự chủ đại học.
– Đổi mới phương thức phân bổ ngân sách cho các cơ sở giáo dục đại học theo hướng đầu tư công và đầu tư chiều sâu.
– Quản lí Nhà nước về tự chủ đại học phải tăng cường giám sát việc thực thi pháp luật, trao quyền tự chủ gắn với tự chịu trách nhiệm một cách đồng bộ.
– Cải thiện môi trường đầu tư cho phát triển đại học.
– Đẩy mạnh giao quyền tự chủ cho các cơ sở đại học.
– Tăng cường các điều kiện bảo đảm chất lượng và kiểm định chất lượng giáo dục đại học.
– Tiếp tục đẩy mạnh thông tin, truyền thông về đa dạng nguồn lực đầu tư trong tự chủ đại học.
– Thực hiện liên kết, hợp tác giữa các cơ sở giáo dục đảm bảo hệ sinh thái liên thông nhằm xây dựng hệ thống các dịch vụ trong đại học.
– Tự chủ đại học hiện nay khi triển khai nhiều cơ sở giáo dục cần phải tháo gỡ rào cản, khó khăn, vướng mắc, lúng túng.
Thực hiện tốt các giải pháp trên sẽ tạo ra cơ chế đột phá, thu hút, huy động các nguồn lực đa dạng đầu tư của các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp, cộng đồng và đông đảo nhân dân cho phát triển đại học.
Theo thống kê hiện nay đã có 23 trường đại học chuyển đổi sang hoạt động tự chủ theo Nghị quyết 77/NQ-CP ngày 24 tháng 10 năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động của các cơ sở giáo dục đại học công lập giai đoạn 2014-2017 đã đạt được những thành tựu rất lớn và có các chỉ số đầu ra rất cụ thể như nhiều diễn đàn, hội thảo vừa qua đã chia sẻ. Có thể nói rằng, tự chủ đại học là xu thế và là tất yếu khách quan trong quá trình phát triển giáo dục đại học, vấn đề còn lại là làm sao để đồng bộ hoá được các quy định, văn bản pháp luật, tạo được hành lang pháp lý thông thoáng, cách hiểu, cách thực thi về tự chủ được thuận lợi, an toàn và có được tính đột phá nhưng không tách rời việc quản trị trong cơ sở giáo dục đại học ngày một cụ thể và toàn diện hơn cho giáo dục đại học, trong đó việc củng cố hệ thống quản trị, đội ngũ nhân sự và hệ thống các văn bản quản lý trong cơ sở giáo dục đóng vai trò rất quan trọng trong việc tạo điều kiện triển khai hoạt động tự chủ.
Để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao thì đầu tư nguồn lực cho giáo dục đại học sẽ rất quan trọng, đặc biệt là trong bối cảnh tự chủ, cần đưa ra đánh giá về pháp luật đầu tư nguồn lực cho giáo dục đại học trong bối cảnh tự chủ hiện nay bao gồm những ưu điểm và hạn chế, từ đó kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý và nâng cao hiệu quả thực hiện về đầu tư nguồn lực cho giáo dục đại học trong bối cảnh tự chủ:
– Một là, cần ban hành văn bản pháp lý chuyên biệt quy định cụ thể về đầu tư nguồn lực cho giáo dục đại học trong bối cảnh tự chủ. Trước mắt, cơ quan có thẩm quyền là Chính phủ nên ban hành dưới dạng Nghị định trong đó xác định các nội dung chính về phạm vi điều chỉnh về đầu tư nguồn lực; đối tượng áp dụng; chủ thể đầu tư; hình thức đầu tư; trình tự thủ tục đầu tư; quy định về xúc tiến đầu tư; trách nhiệm và quyền lợi của các bên cũng như phương thức giải quyết tranh chấp… để thiết lập hành lang pháp lý riêng biệt, tạo cơ chế thực hiện hiệu quả trong thực tiễn. Nhà nước cần ban hành quy định về chính sách đầu tư, chế độ đãi ngộ nhằm thu hút các nhà khoa học và người Việt Nam ở nước ngoài tham gia hoạt động tài trợ, giảng dạy, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ.
– Hai là, tham khảo Luật Giáo dục đại học của một số nước trong khu vực: Luật quy định về Quỹ giáo dục đại học có nguồn gốc từ ngân sách của Tiểu bang và/hoặc ngân sách của khu vực. Chính phủ cung cấp Quỹ giáo dục đại học được phân bổ trong ngân sách của tiểu bang. Qũy được sử dụng để chi các chi phí hoạt động, giảng viên và cán bộ giáo dục, cũng như đầu tư và phát triển, việc hỗ trợ phụ cấp giảng viên chuyên nghiệp, phụ cấp giáo sư danh dự, hỗ trợ cho sinh viên, hỗ trợ chi phí theo giáo dục đại học. Chính phủ phân bổ ít nhất 30% số tiền trong kinh phí hỗ trợ hoạt động từ ngân sách giáo dục cho các quỹ. Luật quy định rõ công chúng có thể tài trợ cho giáo dục đại học theo hình thức là: quỹ tài trợ giáo dục đại học; đóng góp của cá nhân hoặc doanh nghiệp… Chính phủ cung cấp các ưu đãi cho giới kinh doanh và giới công nghiệp hoặc các thành viên của công chúng đóng góp vào việc thực hiện giáo dục đại học theo các quy định của luật pháp.
– Ba là, cần đơn giản hóa thủ tục hành chính trong đầu tư nguồn lực cho giáo dục đại học; các cơ sở giáo dục đại học cần chủ động huy động các khoản tài trợ từ các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài.
Đầu tư nguồn lực cho giáo dục đại học là việc làm cần thiết của mỗi quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Để thu hút các nhà đầu tư thì hành lang pháp lý quy định cụ thể, tạo cơ chế rõ ràng, minh bạch sẽ là điều kiện tiên quyết hàng đầu để quyết định đầu tư hiệu quả, qua đó, góp phần phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo, nâng cao vị thế bảng xếp hạng cơ sở giáo dục đại học của Việt Nam, thúc đẩy hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế xã hội đất nước.
Một số tác giả đã nêu lên những bất cập của hệ thống giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng, tiêu biểu như sau:
– Về nội dung:
+ Một là, nội dung kiến thức đào tạo còn nặng về lý thuyết, nhẹ về thực hành, chưa tạo được sự thống nhất gắn mục tiêu giáo dục với mục tiêu tìm kiếm việc làm đối với người học.
+ Hai là, chưa tạo được sự liên thông giữa các chuẩn mực giáo dục đại học trong nước và quốc tế.
+ Ba là, chương trình học còn nặng với thời lượng lớn.
– Về phương pháp và hình thức tổ chức dạy học: còn khá lạc hậu. Phương pháp giảng dạy không hiệu quả, quá phụ thuộc vào các bài thuyết trình và ít sử dụng các kỹ năng học tích cực, kết quả là có ít sự tương tác giữa sinh viên và giảng viên trong và ngoài lớp học; quá nhấn mạnh vào ghi nhớ kiến thức theo kiểu thuộc lòng mà không nhấn mạnh vào việc học khái niệm hoặc học ở cấp độ cao (như phân tích và tổng hợp), dẫn đến hậu quả là học hời hợt thay vì học chuyên sâu; sinh viên học một cách thụ động.
– Về cơ chế, chính sách: Theo Luật Giáo dục đại học thì quyền tự chủ đã được ghi nhận. Tuy nhiên, Bộ GD và ĐT vẫn ban hành Chương trình khung buộc các trường phải theo; Bổ nhiệm/công nhận Hiệu trưởng; Quy định lương giảng viên đại học trả theo văn bản nhà nước rất cứng nhắc. Như vậy, Luật Giáo dục đại học là một bước tiến trong tư duy quản trị đại học nhưng chưa phải một bước ngoặt.
Từ thực tiễn nghiên cứu về một số trường đại học đã thực hiện tự chủ đại học, các tác giả đã đề xuất một số giải pháp như sau:
– Xây dựng hệ thống đánh giá về tự chủ đại học: cần đánh giá hiệu quả hoạt động của đơn vị tự chủ một cách chuyên nghiệp, có hệ thống, định kỳ.
– Cơ chế quản lý điều hành phù hợp và phát huy hiệu quả:
– Tăng số lượng đề tài, dự án khoa học công nghệ bằng đấu thầu và hợp tác với các Bộ, Sở, các địa phương, doanh nghiệp.
– Các chương trình đào tạo và phương pháp giảng dạy được thiết kế theo hướng hội nhập quốc tế, có tính mở và cập nhật thường xuyên, phù hợp với yêu cầu của thị trường lao động và Bằng tốt nghiệp được quốc tế công nhận.
– Mở rộng mạng lưới hợp tác nghiên cứu.
Các tác giả cũng khẳng định và nhấn mạnh về việc xuất hiện các doanh nghiệp trong trường đại học là điều tất yếu hướng đến nâng cao kỹ năng thực hành cho nguồn lực được đào tạo tại cơ sở, giúp sinh viên sớm tiếp cận với thực tế, thích ứng với công việc sau khi tốt nghiệp. Tuy nhiên, về mặt pháp luật vẫn tồn tại “khoảng trống” khi các trường đại học tiến hành thành lập các doanh nghiệp, được gọi là “doanh nghiệp trong trường đại học”. Từ đó, chỉ ra những bất cập, cũng như đề xuất những giải pháp nhằm tháo gỡ việc đầu tư nguồn lực cho giáo dục đại học trong bối cảnh tự chủ.
Chủ đề 2: Nguồn lực tài chính cho giáo dục đại học trong bối cảnh tự chủ
Quá trình đổi mới toàn diện giáo dục đại học Việt Nam, tài chính trong các cơ sở giáo dục đại học (GDĐH) là một trong những vấn đề quan trọng đòi hỏi phải có những giải pháp quản lý mang tính đột phá. Một số tác giả đã phân tích thực trạng nguồn lực tài chính cho giáo dục đại học trong bối cảnh tự chủ, từ đó đưa ra một số khuyến nghị về tài chính cho giai đoạn đến. Trong điều kiện ngân sách nhà nước (NSNN) dành cho GDĐH còn hạn chế, việc thực hiện tự chủ tài chính đối với các cơ sở GDĐH công lập là tất yếu, nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực, đồng thời vận động các nguồn lực của xã hội cho phát triển GDĐH. Để nâng cao hiệu quả thực hiện cơ chế tự chủ tài chính của các cơ sở GDĐH công lập, các tác giả đã đề cập đến một số nội dung sau:
– Thứ nhất, cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật, đổi mới phương thức quản lý nhà nước và xây dựng môi trường thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh để thực hiện tự chủ đại học toàn diện, thực chất và hiệu quả hơn. Các bộ, ngành cần tăng cường kiểm tra, rà soát, sửa đổi, bổ sung và sớm ban hành các văn bản hướng dẫn, quy định các tiêu chuẩn, định mức nhằm tháo gỡ khó khăn về cơ chế, chính sách; sớm có văn bản hướng dẫn cụ thể về quản lý tài chính và hạch toán các nội dung có tính chất kinh doanh phát sinh tại các đơn vị sự nghiệp công.
– Thứ hai, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền gắn với phân trách nhiệm tới các cơ sở GDĐH, cân bằng giữa quyền và trách nhiệm của các cơ sở GDĐH khi thực hiện tự chủ; ban hành các văn bản quy định, các tiêu chí đánh giá mức độ và chất lượng hoàn thành nhiệm vụ của các đơn vị được giao tự chủ; làm rõ hơn vai trò, trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan quản lý trực tiếp và chính quyền địa phương đối với phát triển hệ thống GDĐH và quản lý các cơ sở GDĐH.
– Thứ ba, tăng cường đầu tư, phát triển các nguồn lực thông qua việc hoàn thiện và triển khai các cơ chế, chính sách đầu tư, chi NSNN đối với GDĐH theo chủ trương, nghị quyết của Đảng và quy định tại Luật Giáo dục đại học. Hoàn thiện cơ chế, chính sách xã hội hoá GDĐH, ưu đãi, hỗ trợ, khuyến khích đầu tư và tài trợ cho GDĐH.
– Thứ tư, đổi mới phương pháp phân bổ NSNN cho các cơ sở GDĐH theo kết quả đầu ra; định mức phân bổ chi phí đào tạo có sự phân biệt giữa các cơ sở gắn với chất lượng, hiệu quả hoạt động.
– Thứ năm, tại các cơ sở GDĐH cần đẩy mạnh hoạt động tự chủ đại học và trách nhiệm giải trình; thực hiện bồi dưỡng, nâng cao nhận thức cho cán bộ viên chức, giảng viên và người lao động trong toàn trường về các chủ trương, chính sách tự chủ đại học của Đảng và Nhà nước; quy định trách nhiệm giải trình thông qua phân cấp cho các đơn vị trực thuộc; thường xuyên tập huấn, đào tạo nâng cao năng lực quản lý tài chính cho các đơn vị trực thuộc; tổ chức hoạt động kiểm soát nội bộ, minh bạch và công khai tài chính; Đẩy mạnh hoạt động hợp tác với doanh nghiệp; hoạt động thương mại hóa kết quả nghiên cứu, ứng dụng khoa học và chuyển giao công nghệ.
– Thứ sáu, các trường cần thực hiện tốt công tác bảo đảm chất lượng, nâng cao chất lượng đào tạo, nâng cao thương hiệu của trường, để ngày càng thu hút được người học; có chính sách chăm lo, bảo đảm quyền lợi của người dạy, người học.
Bên cạnh đó, dựa vào các quy định hiện hành của nhà nước về tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập, một số tác giả đã phân tích về quyền định đoạt đối với các khoản thu và chi tài chính trong thực hiện tự chủ đại học, từ đó rút ra những bất cập trong đảm bảo nguồn lực cho hoạt động. Về nguyên tắc, các trường đại học được tự chủ tài chính sẽ thực hiện các khoản thu, chi theo quy định đối với loại đơn vị tự chủ được duyệt cho trường. Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất hiện nay ở các trường đại học là cơ chế hiện hành không đảm bảo được sự cân đối giữa thu và chi, vì vậy quyền tự chủ tài chính chưa thực chất. Thông tư số 14/2019/TT-BGDĐT hướng dẫn xây dựng, thẩm định, ban hành định mức kinh tế – kỹ thuật và phương pháp xây dựng giá dịch vụ giáo dục và đào tạo quy định giá dịch vụ giáo dục đào tạo được xác định tính đủ các chi phí theo công thức sau:
Giá dịch vụ giáo dục đào tạo |
= |
Chi phí tiền lương |
+ |
Chi phí vật tư |
+ |
Chi phí quản lý |
+ |
Chi phí khấu hao/hao mòn tài sản cố định (tích lũy đầu tư) |
+ |
Chi phí, quỹ khác |
Nhìn vào công thức và cơ cấu tính giá dịch vụ ta dễ thấy các khoản chi phí có thể rất khác nhau giữa các ngành đào tạo, nhưng đều là yếu tố khách quan. Các trường đại học khi tự chủ, để giảm “giá thành” chỉ có phương pháp chi tiêu hiệu quả, khó cắt giảm các khoản chi. Nghĩa là việc giảm chi đến một mức nào đó sẽ ảnh hưởng tất yếu đến chất lượng dịch vụ (đào tạo). Để khắc phục sự bất cập đó, giúp các trường đại học công lập cũng như ngoài công lập có môi trường cạnh tranh bình đẳng, đề nghị Chính phủ hoàn thiện chính sách hỗ trợ ngân sách và cơ chế đảm bảo nguồn thu để bù đắp đủ chi phí đào tạo theo hướng sau:
– Tính đủ chi phí đào tạo/sinh viên/năm học (chi phí này khác nhau ở từng ngành học) và xem đây là giá dịch vụ phải đảm bảo để trường đại học hoạt động bình thường. Xem đây là giá thành đào tạo trên một đơn vị sản phẩm là sinh viên và thực hiện thu chi phí đào tạo những ai được hưởng lợi khi sinh viên tốt nghiệp ra trường (tương tự như mua sản phẩm). Có bốn đối tượng được hưởng lợi là Nhà nước, người học (sinh viên), người sử dụng lao động và cộng đồng dân cư phải chịu trách nhiệm chi trả một phần chi phí đào tạo tương ứng với sự hưởng lợi và trường đại học cũng có trách nhiệm tạo thêm nguồn thu để bù đắp phần còn lại. Cơ chế tạo nguồn thu hướng tới các đối tượng đó.
– Thực hiện nghĩa vụ nộp trả chi phí đào tạo:
+ Nhà nước: Hỗ trợ ngân sách cho trường đại học theo số người học (xác định theo chỉ tiêu tuyển sinh đúng quy định), không phân biệt người học được hỗ trợ đang học ở trường công lập hay trường ngoài công lập.
Hiện nay Chính phủ chỉ cấp NSNN hỗ trợ cho cơ sở giáo dục công lập chưa tự lo được toàn bộ chi phí, các cơ sở giáo dục công lập đã tự lo được chi phí và cơ sở giáo dục ngoài công lập thì không được hỗ trợ ngân sách. Điều này tạo sự không công bằng trong trách nhiệm đóng góp chi phí đào tạo và cơ hội cạnh tranh giữa các loại hình trường. Để thực hiện phương án này, trên cơ sở giá dịch vụ đào tạo tính toán theo Nghị định 81/2021/NĐ-CP và Thông tư số 14/2019/TT-BGDĐT, cơ quan quản lý xác định mức bình quân để hỗ trợ cho các cơ sở đào tạo theo số người học mà họ đã tuyển sinh đúng quy định của nhà nước. Người học ở trường công lập và trường ngoài công lập đều được hỗ trợ như nhau, xem đây là phần trách nhiệm chi trả của nhà nước đối với sự hưởng lợi từ sản phẩm đào tạo.
+ Người học (sinh viên): Thay đổi cơ chế học phí, vừa hướng tới bù đắp chi phí đào tạo, vừa giải quyết được các chính sách xã hội của nhà nước.
Sau khi có sự hỗ trợ của nhà nước, phần chi phí đào tạo còn lại người phải nộp phần tiếp theo là sinh viên, thông qua học phí. Tính toán để xác định trách nhiệm đóng góp của người học bằng phương thức học phí. Không phải tất cả người học đều có khả năng đóng góp theo mức quy định, bằng các chính sách xã hội, Chính phủ thực hiện việc miễn giảm, hỗ trợ chi phí cho những đối tượng khó khăn để họ có thể đóng học phí theo mức chung. Để thực hiện được giải pháp này chính sách miển giảm học phí, hỗ trợ chi phí đào tạo hiện hành cần được điều chính, sửa đổi theo cách tiếp cận mới: Tính toán mức học phí nhìn nhận từ chi phí đào tạo, còn yếu tố mức sống được giải quyết bằng chính sách bù trừ của nhà nước.
+ Người sử dụng lao động: Quy định trách nhiệm của các doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp có thu trong việc phối hợp, chia sẻ chi phí đào tạo với trường học. Chúng ta có thể học hỏi kinh nghiệm của các nước để thể chế hoá thành các quy định của pháp luật.
+ Trường đại học: Nhà nước tạo lập cơ chế và môi trường cởi mở để cơ sở giáo dục thực hiện các dịch vụ nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ và các dịch vụ xã hội có thu khác nhằm bù đắp một phần chi phí. Hiện nay khối các trường đào tạo đã từng bước tạo lập được nguồn thu từ các hoạt động này, nhưng tạo ra nguồn thu rất thấp (khoảng 3% nguồn thu), do cơ chế chưa cởi mở và thiếu đồng bộ. Kiến nghị Chính phủ cần có sự chỉ đạo mạnh mẽ và đồng bộ để thực hiện tốt giải pháp này.
+ Cộng đồng dân cư, sau khi thu từ nhà nước, người học, người sử dụng lao động và tự bổ sung của trường đại học, phần chi phí còn lại (Giá thành đào tạo – Ngân sách hỗ trợ – Học phí – Đóng góp của người sử dụng lao động – Kinh phí bổ sung của trường đại học) thu từ cộng đồng dân cư bằng cách tăng cường vai trò của các hội nghề nghiệp (hội khuyến học, hội cựu giáo chức…) và các đoàn thể chính trị, xã hội để vận động các quỹ khuyến học, khuyến tài; phải xem đây là trách nhiệm đóng góp của cộng đồng xã hội cho chí phí đào tạo, chứ không phải đơn thuần chỉ là từ thiện hay hảo tâm.
Ngày nay, tự chủ tài chính đang trở thành xu thế tất yếu của các quốc gia. Tùy theo nền kinh tế và văn hóa của mỗi quốc gia mà có những cách thức tự chủ khác nhau. Vì vậy, không thể sao chép một mô hình quản lý tài chính của bất kỳ quốc gia nào, và chúng ta chỉ có thể chọn lọc và học hỏi những điểm ưu việt của họ để áp dụng cho các trường đại học ở Việt Nam.
Chủ đề 2.1: Đầu tư cho giáo dục đại học là đầu tư phát triển: vai trò của nhà nước về nguồn lực cho giáo dục đại học
Nguồn nhân lực luôn là động lực chính quyết định sự phát triển hưng thịnh của một Quốc gia, dân tộc. Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng công nghệ 4.0, nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực trong GDĐH càng có vai trò quan trọng hơn bao giờ hết. Vì vậy, Nhà nước cần phải có một chiến lược đúng đắn trong phát triển nguồn nhân lực giáo dục nhằm đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ giáo dục và đào tạo trong tình hình mới. Một số bài viết đã nêu ra vai trò của Nhà nước trong phát triển nguồn nhân lực giáo dục được thể hiện trên một số nội dung cơ bản như sau:
Một là, Nhà nước tạo môi trường cho phát triển nguồn nhân lực giáo dục nói chung, nguồn nhân lực cho giáo dục đại học nói riêng.
Hai là, Nhà nước hoạch định chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển nguồn nhân lực giáo dục đại học.
Ba là, Nhà nước xây dựng và thực thi các chính sách phát triển nguồn nhân lực giáo dục đại học.
Bốn là, Nhà nước tiến hành thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm.
Việc phát triển nguồn nhân lực giáo dục nói chung và nguồn nhân lực giáo dục đại học nói riêng đã trở thành chìa khóa thành công để phát triển đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một số hạn chế, bất cập. Một số tác giả đã đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy hơn nữa vai trò của Nhà nước trong việc phát triển nguồn nhân lực giáo dục đáp ứng yêu cầu tự chủ đại học hiện nay như sau:
Thứ nhất, tạo lập nền tảng kinh tế – xã hội cho phát triển nguồn nhân lực giáo dục đại học. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã tiếp tục khẳng định giáo dục là quốc sách hàng đầu và đặc biệt nhấn mạnh phát triển nguồn nhân lực, giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu nhân lực chất lượng cao của Cách mạng công nghiệp 4.0 và hội nhập quốc tế. Bên cạnh đó, việc đầu tư, quan tâm cho giáo dục cũng là một trong những giải pháp để phát huy vai trò của Nhà nước trong phát triển nguồn nhân lực giáo dục nói chung, giáo dục đại học nói riêng. Nhà nước cần tập trung vào một số vấn đề sau:
(1) Phân cấp hệ thống giáo dục một cách khoa học để thấy rõ vai trò của Nhà nước đối với mỗi cấp giáo dục là khác nhau; từ đó, mức độ can thiệp của Nhà nước và chính sách của Nhà nước đối với mỗi cấp bậc giáo dục và đào tạo là khác nhau. Cần phải phân biệt hai bậc của hệ thống giáo dục quốc gia là giáo dục phổ thông và giáo dục nghề nghiệp; phân biệt rõ 2 nhánh của giáo dục nghề nghiệp là đào tạo nghề và giáo dục đại học.
(2) Xây dựng hệ thống cơ chế, chính sách phù hợp với từng bậc giáo dục, để bảo đảm hiệu quả hoạt động, Nhà nước cần bảo đảm quyền tự chủ thật sự của các cơ sở giáo dục và đào tạo nghề nghiệp trên mọi phương diện.
(3) Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát nhằm mục đích giúp cho các cơ sở giáo dục và đào tạo hoạt động đúng sứ mệnh, tôn chỉ, mục đích đã đề ra, bảo đảm chất lượng và hạn chế những sai sót, kịp thời xử lý những vi phạm…, đặc biệt là cơ sở giáo dục và đào tạo nghề nghiệp được giao quyền tự chủ.
(4) Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo để có thể tiếp nhận các nguồn lực, trao đổi và học tập kinh nghiệm của các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới để tiến hành đổi mới giáo dục và đào tạo. Đây là con đường tất yếu dẫn đến nền giáo dục và đào tạo nước ta theo kịp các nước.
Thứ hai, nhanh chóng khắc phục những hạn chế, bất cập trong thực hiện vai trò của Nhà nước đối với phát triển nguồn nhân lực giáo dục.
Để khắc phục những hạn chế, bất cập trong thực hiện vai trò của Nhà nước đối với phát triển nguồn nhân lực giáo dục, cần tập trung vào: Một là, hoàn thiện chiến lược, quy hoạch phát triển nguồn nhân lực giáo dục nói chung, giáo dục đại học nói riêng. Hai là, hoàn thiện các chính sách phát triển nguồn nhân lực giáo dục nói chung, giáo dục đại học nói riêng. Ba là, hoàn thiện hệ thống thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm.
Thứ ba, nâng cao năng lực, phẩm chất cán bộ và hiệu lực, hiệu quả của bộ máy tổ chức, quản lý nguồn nhân lực giáo dục.
Nhìn chung sự hạn hẹp về tài chính là thách thức của hầu hết các hệ thống GDĐH trên thế giới trong mấy thập kỷ gần đây trước yêu cầu của những động lực mới trong phát triển GDĐH. Tuy nhiên, đối với Việt Nam thách thức này đặc biệt gay gắt khi GDĐH phải đáp ứng các yêu cầu cao về đổi mới căn bản và toàn diện trong việc thực hiện khâu đột phá chiến lược về phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao. Biểu hiện cụ thể của các thách thức này là:
– Thách thức tài chính ở cấp hệ thống: Mặc dù theo quy định của pháp luật, chi ngân sách nhà nước cho giáo dục được bảo đảm tối thiểu là 20% tổng chi ngân sách nhà nước nhưng trên thực tế, ngoại trừ duy nhất năm 2014, tỷ lệ này đạt 20,2%, còn lại tỷ lệ này không những chưa bao giờ đạt mà còn có xu thế giảm dần, hiện đạt 17,5% vào năm 2020 (Viện Khoa học giáo dục Việt Nam, 2021). Trong thách thức chung đó, GDĐH có hai thách thức đáng quan ngại sau đây. Thứ nhất, tỷ lệ chi ngân sách nhà nước cho GDĐH trong GDP rất thấp và cũng đang giảm dần, từ 0,33% năm 2004, giảm xuống 0,24% năm 2011và năm 2015 (World Bank, 2020). Thứ hai, chi ngân sách nhà nước cho GDĐH ở Việt Nam vào loại thấp nhất trên thế giới; đây là một tỷ lệ chi cực kỳ thấp, nhất là đối với một nước có khát vọng trở thành nước thu nhập trung bình cao vào năm 2030 (World Bank, 2020).
– Thách thức tài chính ở cấp trường: Từ Kết luận số 37 ngày 26/5/2011 của Bộ Chính trị về Đề án “Đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, đẩy mạnh XHH một số loại hình dịch vụ sự nghiệp công” đến NQ số 19 ngày 29/10/2017 của Hội nghị TW6 (Khóa XII) về tiếp tục đổi mới và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, chủ trương nhất quán là phát triển thị trường dịch vụ sự nghiệp công; thu hút mạnh mẽ các thành phần kinh tế tham gia phát triển dịch vụ sự nghiệp công; đẩy mạnh việc chuyển đổi các đơn vị sự nghiệp công lập sang mô hình tự chủ hoàn toàn cả về chi đầu tư và chi thường xuyên. Trong lĩnh vực GDĐH, các cơ sở GDĐH hiện được chia thành bốn loại: 1) Cơ sở GDĐH tự bảo đảm toàn bộ chi thường xuyên và chi đầu tư; 2) Cơ sở GDĐH tự bảo đảm toàn bộ chi thường xuyên; 3) Cơ sở GDĐH tự bảo đảm một phần chi thường xuyên; 4) Cơ sở GDĐH do ngân sách nhà nước bảo đảm toàn bộ chi thường xuyên. Lộ trình đặt ra là các cơ sở GDĐH phải chuyển dần sang tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư trên cơ sở từng bước tính đúng, tính đủ giá dịch vụ đào tạo, bao gồm chi phí tiền lương, chi phí trực tiếp, chi phí quản lý và chi phí khấu hao tài sản cố định. Nghĩa là, theo đúng quy định về nguồn thu tài chính của cơ sở GDĐH tại Điều 64 của Luật GDĐH 2018, thì nguồn thu chủ yếu của cơ sở GDĐH sẽ là các khoản thu ngoài ngân sách; nguồn ngân sách nhà nước cấp chỉ là nếu có. Thực sự đây là thách thức lớn đối với các cơ sở GDĐH, đặc biệt khi các cơ sở này đứng trước yêu cầu phải bảo đảm và nâng cao chất lượng với những khoản chi không ngừng gia tăng về đổi mới chương trình đào tạo, xây dựng hệ thống bảo đảm chất lượng bên trong, cải thiện đời sống giảng viên, đầu tư công nghệ và trang thiết bị, nâng cấp cơ sở vật chất.
Trước những thách thức cả ở cấp hệ thống và cấp trường như nêu trên thì hiển nhiên giáo dục Việt Nam nói chung, các cơ sở GDĐH Việt Nam nói riêng, đang đứng trước một thách thức tài chính rất lớn khi mà Chương trình chuyển đổi số quốc gia theo QĐ 749 ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ đặt ra một số chỉ tiêu đầy tham vọng cho ngành giáo dục.
Ở giữa hai đầu cực là các hệ thống GDĐH với cơ chế chia sẻ chi phí theo tỷ lệ chi phí công/chi phí tư rất khác nhau tùy theo khu vực, thậm chí tùy theo nhà trường trong cùng một quốc gia. Chẳng hạn, nghiên cứu của Teferra và cộng sự (2022) cho thấy tỷ lệ này là 10,6 ở Châu Âu và Bắc Mỹ; 2,1 ở Châu Á; 1,9 ở Châu Mỹ La tinh và vùng Caribee. Ở hầu hết các quốc gia trong nghiên cứu này, chính phủ cung cấp số tiền lớn hơn so với gia đình của sinh viên. Chỉ riêng ở các nước Albania, El Salvador, Nepal và Peru thì chi tiêu gia đình cho mỗi sinh viên nhiều hơn so với chính phủ.
Hiện không có một công thức tối ưu về tỷ lệ chi phí công/chi phí tư trong mô hình chia sẻ chi phí của GDĐH. Tuy nhiên, để thực hiện chuyển đổi GDĐH trước chiều hướng cắt giảm các khoản chi NSNN cho GDĐH ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt do tác động tiêu cực của đại dịch covid-19, Hội nghị GDĐH thế giới lần thứ ba và tiếp đó là Thượng đỉnh chuyển đổi giáo dục đã đưa ra các khuyến nghị sau về chính sách công và tài chính công đối với GDĐH: 1) Cần có sự thay đổi căn bản trong cách thức mà các chính phủ và các bộ tài chính nhìn nhận và đối xử với giáo dục. Chi tiêu cho giáo dục không hẳn là một khoản chi tiêu dùng – đó là một khoản đầu tư quan trọng của quốc gia; 2) Bất kể cơ chế tài chính là gì, các chính phủ cần cấp tài chính nhiều hơn nữa cho GDĐH với tư cách là một lợi ích công trên cơ sở tối ưu hóa chi tiêu công, nâng cấp các hệ thống thuế và đảm bảo tính minh bạch; 3) Cần đảm bảo rằng các nước đang phát triển đầu tư 1% GDP của họ cho GDĐH, nghiên cứu và phát triển (Teferra và cộng sự, 2022).
Trong bối cảnh chung đó, chính sách phát triển GDĐH Việt Nam hiện nay là phát huy quyền tự chủ đại học theo định hướng khuyến khích các cơ sở GDĐH công lập tự bảo đảm mọi khoản chi, bao gồm chi thường xuyên và chi đầu tư. Nguồn thu ngoài ngân sách sẽ là nguồn thu chủ yếu của các cơ sở GDĐH công lập, trong đó đóng góp chính là nguồn thu từ học phí. Tuy nhiên để thực sự có bước đột phá trong đổi mới căn bản và toàn diện GDĐH theo yêu cầu của Đại hội Đảng lần thứ 13, sao cho GDĐH được chuyển đổi và đóng góp hữu hiệu vào việc đưa nước ta trở thành nước thu nhập trung bình cao vào năm 2030 thì việc tăng ngân sách Nhà nước cho GDĐH là cấp thiết.
Chủ đề 2.2: Quyền tự chủ đại học và Nghị định 60 về cơ chế tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập
Đổi mới cơ chế tự chủ đối với các đơn vị sự nghiệp công lập, đặc biệt đối với các Trường Đại học công lập là một yêu cầu bức thiết trong giai đoạn hiện nay, phù hợp với xu thế của xã hội, nâng cao hiệu quả hoạt động và nâng cao chất lượng dịch vụ mà các đơn vị sự nghiệp công lập cung cấp cho xã hội. Trong những năm qua, cùng với sự phát triển của nền kinh tế – xã hội, Nhà nước ta đã ban hành các chính sách nhằm từng bước đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập. Một số tác giả đã khái quát những vấn đề cơ bản của cơ chế tự chủ, thuận lợi và khó khăn trong thực hiện cơ chế tự chủ tại các Trường Đại học ở Việt Nam.
Những thuận lợi và khó khăn của cơ chế tự chủ tài chính trong các cơ sở đào tạo và trường đại học công lập:
– Thuận lợi:
+ Về huy động nguồn vốn, các trường đã huy động được vốn từ cán bộ công nhân viên, từ các nhà đầu tư thông qua liên doanh, liên kết hoặc vay các tổ chức tín dụng để đầu tư xây dựng cơ bản, đổi mới trang thiết bị thí nghiệm, thực hành, học tập và nghiên cứu khoa học làm cho cơ sở vật chất của nhà trường khang trang, hiện đại hơn.
+ Về mở rộng, khai thác và phát triển nguồn thu, nhiều trường đã mở rộng quy mô, đa dạng hóa các ngành nghề, cấp bậc đào tạo với nhiều hình thức đào tạo tập trung, đào tạo từ xa, một số trường lớn đã mời chuyên gia nước ngoài tham gia giảng dạy tại trường hoặc tổ chức liên kết với nước ngoài để mở trường hoặc tổ chức liên kết với nước ngoài để mở khoa, mở lớp đào tạo…
+ Về thu nhập tăng thêm của người lao động, các trường đã đổi mới hoạt động, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí tạo ra nguồn tăng thu nhập cho người lao động.
+ Về xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ, 100% các trường đã xây dựng và công bố công khai chế độ quản lý tài chính, chi thu nhập tăng thêm, chế độ công tác phí, điện thoại, xăng dầu, văn phòng phẩm, chế độ giáo viên, nghiên cứu khoa học, hoạt động dịch vụ, trích lập các quỹ… góp phần tăng cường công tác quản lý, sử dụng hiệu quả các nguồn lực, thúc đẩy các hoạt động tăng thu, tiết kiệm chi phí tại đơn vị.
Trong quá trình thực hiện cơ chế tự chủ tài chính các trường còn gặp phải nhiều vướng mắc, rất khó thực hiện:
Thứ nhất, cơ chế chính sách của nhà nước thiếu đồng bộ và có những bất cập nhất định, cụ thể, chậm đổi mới, chậm ban hành các văn bản hướng dẫn Nghị định 43/CP quy định, Bộ chủ quản phối hợp với các bộ để ra văn bản hướng dẫn lĩnh vực Bộ chủ quản phụ trách nhưng hầu như các bộ vẫn chưa có văn bản hướng dẫn. Việc phân cấp đầu tư, mua sắm tài sản, xây dựng cơ bản cho đơn vị tự thực hiện của Bộ chủ quản đã được thực hiện nhưng giá trị tài sản phân cấp mức thấp, nhiều định mức, tiêu chuẩn như định mức giờ giảng, chế độ thanh toán ngoài giờ… đã lạc hậu nhưng vẫn sử dụng làm hạn chế tính chủ động, tự chủ tài chính của các trường. Đây thật sự là một bất cập lớn cho các trường trong việc chủ động tìm kiếm, huy động nguồn lực tài chính cho đầu tư phát triển, thu hút nhân tài, xây dựng cơ sở vật chất nâng cao chất lượng đào tạo, trong khi ngân sách nhà nước chi cho giáo dục đào tạo hàng năm tăng không đáng kể. Quy định về chi đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm tài sản cố định thực sự chưa đúng bản chất của công tác đào tạo. Việc triển khai dự án xây dựng cơ bản gặp nhiều khó khăn do ngân sách nhà nước thường cấp 30% và đơn vị phải tự lo 70%…
Thời điểm chi và mức chi thu nhập tăng thêm là chưa hợp lý. Từ năm 2002, khi thực hiện Nghị định số 10/2002/NĐ-CP của Chính phủ, các trường đó thanh toán 100% thu nhập tăng thêm cho người lao động theo tháng, nhưng Nghị định 43/CP và các văn bản hướng dẫn lại quy định việc trả thu nhập tăng thêm chỉ được chi theo quý với mức tối đa bằng 60% số chênh lệch thu lớn hơn chi tiết kiệm được. Kết quả, hàng tháng nhà trường không đủ kinh phí để chi 100% thu nhập tăng thêm. Điều này không được người lao động chấp nhận, vì hàng tháng, mức thu nhập của họ bị giảm và phải chờ đợi đến khi cấp trên phê duyệt quyết toán mới được nhận, làm cho đời sống của người lao động gặp khó khăn. Ngoài ra, Nhà nước chưa có hướng dẫn, chưa có quy định cụ thể về việc liên doanh, liên kết, về tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành, chất lượng và kết quả hoạt động của đơn vị được giao quyền tự chủ nên việc triển khai, thực hiện cũng nhiều vướng mắc.
Thứ hai, tính chủ động của các trường trong việc thực hiện cơ chế tự chủ tài chính cũng mang tính hình thức. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, viên chức, người lao động trong nhà trường chưa nhận thức đầy đủ nội dung, mục đích và yêu cầu về tự chủ tài chính, vẫn có tâm lý ỷ lại, trông chờ vào sự bao cấp của Nhà nước, của nhà trường, ngại thay đổi, e ngại động chạm đến những vấn đề phức tạp, liên quan đến nhiều cấp, nhiều lĩnh vực… Việc xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ cũng mang tính hình thức, chưa đưa ra quy định cụ thể về nội dung, mức chi hoặc việc chi trả thu nhập vẫn mang tính bình quân, chưa có giải pháp về chi trả thu nhập theo mức độ hiệu quả để hấp dẫn, thu hút người tài, người có năng lực, thực sự cũng thiếu các biện pháp quản lý, tiết kiệm chi, tăng thu, mới chỉ dừng lại ở mức là chủ trương, đường lối để phấn đấu thực hiện.
Cơ chế tự chủ tài chính của Nghị định 43/CP đã đưa đến một luồng sinh khí mới cho các cơ sở đào tạo và các trường nói chung, trường đại học nói riêng, giúp các trường phát huy mọi khả năng sẵn có của mình về trí tuệ, nguồn nhân lực, cơ sở vật chất để mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng đào tạo. Tuy vậy, Nhà nước và các cơ quan có thẩm quyền cần phải sớm giải quyết những tồn tại của hoạt động hiện hành mà đưa ra một cơ chế, chính sách tự chủ tài chính ở các cơ sở đào tạo và từng đại học công lập một cách đồng bộ và nhất quán, có sự phân cấp và phân công cụ thể, đặc biệt là phải có sự phân công trách nhiệm quản lý mang tính trọng trách độc lập, nằm dưới sự giám sát, kiểm tra của tập thể. Bên cạnh đó, dù mở rộng cơ chế tự hạch toán nhưng ở tại mỗi cơ sở, mỗi trường phải có sự cân đối tài chính một cách cụ thể ở mỗi đơn vị chức năng, giảm tránh sự chuyên quyền, phân lệch, sự phân bố không đều, không thoả đáng làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động, gây ra tình trạng mất đoàn kết nội bộ, đồng thời lại triệt tiêu ý thức sáng tạo lao động trong các cơ quan hiện hành…
Đây là một yêu cầu cấp bách và lâu dài, đồng thời cũng là giải pháp hữu hiệu, quan trọng trong việc huy động tối đa các nguồn lực cho việc xây dựng thương hiệu, uy tín, chất lượng của các cơ sở đào tạo và trường đại học công lập.
Chủ đề 2.3: Phát triển giáo dục đại học ngoài công lập (ĐHNCL) trong thị trường dịch vụ giáo dục đại học
Trong những năm qua, Việt Nam đã có nhiều chính sách thích hợp đối với giáo dục đại học, đáp ứng được những thay đổi của thực tế kinh tế – xã hội. Nhà nước đã tập trung và ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật tạo hành lang pháp lý cho sự vận hành và phát triển giáo dục đại học. Việc điều chỉnh một số chính sách đã đem lại những kết quả bước đầu: nâng cao chất lượng sinh viên, giảm bớt sự mất cân đối giữa quy mô và các điều kiện đảm bảo chất lượng, cơ sở vật chất đã cải thiện rõ rệt, những tiêu cực trong giáo dục đại học đang dần dần giảm bớt. Tuy nhiên, nền giáo dục đại học Việt Nam hiện nay vẫn còn có nhiều yếu kém cần khắc phục để tiếp tục phát triển. Một số bài viết đã nêu lên những hạn chế, bất cập của ĐHNCL :
Thứ nhất, Hội nghị về GDĐH ngoài công lập (14/4/2017) Bộ trưởng Bộ GD&ĐT cho rằng: “Hệ thống văn bản, hành lang pháp lý đã hình thành, đang hoàn thiện nhưng vẫn còn thiếu và chưa đảm bảo vững chắc, chưa đảm bảo cho các nhà đầu tư tâm huyết yên tâm đầu tư vào giáo dục”.
Thứ hai, các trường đại học tư thục (ĐHTT) gặp rất nhiều khó khăn về tuyển sinh, xây dựng đội ngũ nhà giáo, nhất là các trường thuộc nhóm 3- những trường đang trụ ở các địa phương kinh tế – xã hội chưa phát triển.
Thứ ba, Chủ trương đạt tỷ lệ sinh viên ĐHTT 40% vào năm 2010 là không khả thi. Hàng chục năm qua tỷ lệ trên vẫn quanh quẩn bên con số 13. Con số này rất thấp so với các nước Đông Á có điều kiện tương tự Việt Nam.
Các trường đại học ngoài công lập (ĐH NCL) nhìn chung chưa có nhiều mô hình định hướng rõ ràng trong việc phát triển các chương trình đào tạo chất lượng cao, thường chú trọng hướng tới sinh viên không có cơ hội học trường công lập, từ đó làm giảm sức cạnh tranh trong việc thu hút người học. Các trường ĐH NCL đã góp phần nâng cao năng lực đào tạo của hệ thống GDĐH, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu học tập của nhân dân. Tuy nhiên, với quá nhiều các cơ sở đào tạo thuộc các trường với quy mô nhỏ, nằm rải rác, dẫn đến trên cùng địa bàn có nhiều trường đại học (CL+NCL) cùng đào tạo một ngành/nhóm ngành làm phân tán nguồn lực (con người, kinh phí), giảm hiệu quả đầu tư. Thông qua những phân tích trên, các tác giả đã mạnh dạn đề xuất một số giải pháp phát triển đại học NCL:
- 1. Đổi mới tư duy, nhận thức về giáo dục ĐH NCL trong hệ thống giáo dục quốc dân;
- 2. Đẩy mạnh truyền thông về giáo dục ĐH NCL;
- Quy hoạch mạng lưới các trường ĐH NCL đến 2030;
- Hoàn chỉnh căn cứ pháp lý, tạo sự bình đẳng cho giáo dục ĐH NCL;
- Tăng cường cơ chế giám sát đối với các cơ sở GDĐH (bao gồm các cơ sở giáo dục ĐH NCL);
- Phát triển năng lực quản trị của các trường ĐH NCL;
- 7. Phát triển nhân lực các trường ĐH NCL;
- Đầu tư và tài chính đối với từng mô hình trường ĐH NCL;
- Xây dựng hệ thống quản lí chất lượng các trường ĐH NCL;
- Tăng cường quan hệ hợp tác, liên kết các trường ĐH NCL với các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội. Đẩy mạnh hợp tác với các trường ĐH trong hệ thống GDĐH, giữa các trường ĐH NCL;
- Phát triển quan hệ của các trường ĐH NCL Việt Nam.
Chủ đề 2.4: Triển khai mô hình PPP trong giáo dục đại học: cơ hội, thách thức và rào cản
Đầu tư theo hình thức đối tác công tư (Public private partnership – gọi tắt là PPP) trong giáo dục là một xu thế tất yếu, trong bối cảnh hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng, với sự dịch chuyển ngày càng năng động của các nguồn lực giữa các thành phần kinh tế, các quốc gia. Trong bối cảnh nền giáo dục nước ta đang trong quá trình đổi mới căn bản, toàn diện, việc thúc đẩy đầu tư hình thức PPP trong giáo dục đang được Chính phủ chú trọng. Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 04/06/2019 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường huy động các nguồn lực của xã hội đầu tư cho phát triển giáo dục và đào tạo giai đoạn 2019-2025 đã nêu: “Từng bước thí điểm đầu tư theo hình thức đối tác công – tư (PPP) trong giáo dục, trước mắt là các dự án phát triển cơ sở hạ tầng giáo dục”. Sự cần thiết của đầu tư PPP trong giáo dục đã được thực tiễn của các quốc gia trên thế giới chứng minh. Quan hệ đối tác PPP ngày càng được coi là một cách tiếp cận sáng tạo để cung cấp dịch vụ giáo dục cho tất cả mọi người, giảm chi phí, cải thiện chất lượng, tăng cường sự tham gia và chia sẻ rủi ro. PPP trong giáo dục đại học có nhiều điểm mạnh, lợi ích song cũng tiềm ẩn những thách thức và nguy cơ. Một số bài viết đã phân tích các cơ hội và thách thức của quá trình triển khai PPP trong bối cảnh giáo dục đại học Việt Nam, đồng thời đưa ra một số khuyến nghị thúc đẩy phát triển PPP nhằm nâng cao chất lượng giáo dục nói chung, giáo dục đại học nói riêng. Như chúng ta đã biết về những lợi ích của mô hình PPP mang lại, đó là:
– Hợp tác PPP đã thu hút được các thành phần kinh tế từ khu vực tư nhân tham gia đầu tư vào hoạt động giáo dục, góp phần giảm bớt gánh nặng ngân sách đầu tư của nhà nước.
– Hợp tác PPP khắc phục những tồn tại mà Nhà nước chưa giải quyết được, trong khi khu vực tư nhân được kì vọng có thể mang lại những cải tiến, đồng thời giải quyết vấn đề thiếu hụt ngân sách của phía Nhà nước, được nâng cao khả năng tiếp cận các thành tựu khoa học – công nghệ tiên tiến và tăng cường hiệu quả sử dụng nguồn vốn ngân sách .
– Trong dự án PPP, tư nhân thể hiện được vai trò linh hoạt hơn so với Nhà nước trong việc huy động vốn với kênh dẫn vốn đa dạng, phong phú từ nhiều đối tác khác nhau.
– So với hình thức đầu tư truyền thống, hình thức PPP thu được hiệu quả sử dụng vốn ngân sách cao hơn và thông qua PPP, diện mạo về cơ sở vật chất, dịch vụ của nhà trường có sự chuyển biến, tạo động lực phát triển, đảm bảo năng lực cạnh tranh.
– Mô hình PPP giúp tăng năng suất và sử dụng các nguồn lực sẵn có một cách hiệu quả hơn, tối đa hóa giá trị đầu tư. Việc bắt tay giữa Nhà nước và Tư nhân cho phép cộng hưởng tốt nhất thế mạnh của các bên, thông qua việc phát huy sức mạnh tổng hợp trong thiết kế, thi công, kinh doanh và quản lý. Mô hình PPP khuyến khích sáng tạo hợp tác và phổ biến những cách làm tốt nhất.
Một số tác giả đưa ra những khuyến nghị thúc đẩy phát triển các dự án PPP nhằm nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục như:
– Để thúc đẩy phát triển các dự án PPP trong giáo dục đại học trước hết các chủ thể trong mô hình cần tận dụng các cơ hội vốn có: Những kinh nghiệm rút kết từ các mô hình PPP ở các Quốc gia có nền giáo dục tiên tiến; Sự quan tâm và các chính sách phát triển các dự án PPP của Nhà nước; Truyền thống, tiền lệ hợp tác trong định hướng xã hội hóa giáo dục nâng cao thành mô hình tiên tiến với cách thức tổ chức tiến bộ hơn, thực tế hơn như các dự án PPP.
– Nâng cao nhận thức về lợi ích, quy trình, hiệu quả cũng như rủi ro của các dự án PPP.
– Hoàn thiện khung pháp lý cho hình thức đầu tư theo PPP: Vận dụng kinh nghiệm của các nước sửa đổi, bổ sung các chính sách, các văn bản quy phạm pháp luật cho mô hình PPP theo hướng tháo gỡ các vướng mắc trong quá trình thực hiện, đồng bộ hóa các chính sách, pháp luật có liên quan, tạo khung pháp lý đủ mạnh và ổn định làm cơ sở triển khai hiệu quả mô hình này.
– Đổi mới cách thức tổ chức, triển khai mô hình PPP: Xây dựng mô hình quản lý PPP từ trung ương tới địa phương theo từng lĩnh vực theo hướng chuyên nghiệp qua việc thành lập đơn vị chịu trách nhiệm hướng dẫn, hỗ trợ các cơ sở giáo dục đại học triển khai thực hiện đề án theo lộ trình đã định trong đó có các chuyên gia đã từng tham gia thực tế dự án PPP của các bên tại bộ, ngành, địa phương; giám sát và đánh giá việc thực hiện để từng bước đưa giải pháp PPP vào đời sống giáo dục đại học, góp phần hiệu quả tháo gỡ các thách thức về tài chính trong phát triển.
Song song với những đề xuất trên, các tác giả cũng đã đề xuất thêm một số khuyến nghị sau:
Về phía cơ quan quản lý nhà nước
– Bộ Giáo dục đào tạo cần thực hiện thí điểm các mô hình PPP trong giáo dục đại học ở một vài cơ sở cụ thể, qua đó minh chứng rằng qua hiệu quả mà mô hình PPP đang triển khai và thực hiện để các cơ sở giáo dục thấy rõ hơn PPP trong giáo dục đại học không làm bất bình đẳng trong giáo dục mà còn tạo cơ hội cho giáo dục đến với tất cả mọi người, mọi người sẽ được hưởng chất lượng cao nhất từ giáo dục đại học; Thành lập trong Bộ một đơn vị chịu trách nhiệm hướng dẫn, hỗ trợ các cơ sở giáo dục đại học triển khai thực hiện đề án theo lộ trình đã định; Giám sát và đánh giá việc thực hiện để từng bước đưa giải pháp PPP vào đời sống giáo dục đại học, góp phần hiệu quả trong việc thúc đẩy hợp tác đại học – doanh nghiệp.
– Xây dựng và bổ sung các quy định đảm bảo sự minh bạch và nhất quán giữa Luật Giáo dục đại học, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công và Luật Đất đai đảm bảo hành lang pháp lý thống nhất, tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ sở giáo dục đại học đẩy mạnh thực hiện các dự án PPP. Ngoài ra, cần xem xét bổ sung trong Luật Đất đai các quy định về về giao đất và và sử dụng đất trong xây dựng và triển khai các dự án PPP trong lĩnh vực giáo dục nói chung, giáo dục đại học nói riêng.
– Chính phủ và các Bộ Giáo dục đào tạo, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần phối hợp xây dựng hướng dẫn về pháp lý và công cụ để các cơ sở giáo dục đại học thực hiện tiến trình và triển khai thực hiện cho cơ sở giáo dục đại học, tạo khung pháp lí, đặc biệt là trình tự, quy chế thực hiện các loại hợp đồng dự án PPP trong giáo dục và mẫu các loại hợp đồng dự án PPP gắn với các lĩnh vực cụ thể trong giáo dục. Bên cạnh đó, cần có sự phân cấp, phân quyền cho các trường đại học, cơ sở giáo dục trong việc thẩm định, phê duyệt dự án; xây dựng cơ chế hài hòa lợi ích của đại học và tư nhân; chủ động, thiết lập nhiều kênh kết nối trường đại học với doanh nghiệp.
Đối với các cơ sở giáo dục đại học
– Thiết lập bộ phận chuyên trách liên kết, hợp tác với doanh nghiệp. Có chiến lược liên kết với doanh nghiệp qua việc ký thỏa thuận hợp tác về đào tạo và chuyển giao công nghệ, hoặc trở thành cổ đông của những doanh nghiệp. Thí điểm phát triển các mô hình doanh nghiệp trong trường đại học như: Vườn ươm, doanh nghiệp spinoff (Doanh nghiệp khởi nguồn, một mô hình doanh nghiệp khá phổ biến ở các nước phát triển nhằm triển khai và thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học công nghệ), doanh nghiệp start-up (Doanh nghiệp khởi nghiệp). Nhà trường phải tạo được sự liên kết thông qua mối tương tác và dòng chảy hai chiều về ý tưởng, thông tin, tri thức, lao động và nguồn lực giữa nhà trường và doanh nghiệp đảm bảo tính hiệu quả (đôi bên cùng có lợi) và bền vững giữa nhà trường và doanh nghiệp.
– Nâng cao nhận thức về dự án PPP trong giáo dục đại học thấy được lợi ích từ các dự án PPP đem lại. Nâng cao năng lực hoạt động, chuẩn bị và triển khai thực hiện các dự án PPP và cả năng lực quản trị rủi ro dự án PPP trong GDĐH.
Chủ đề 3: Nguồn lực con người cho giáo dục đại học trong bối cảnh tự chủ
Hiện nay, nguồn lực con người có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển giáo dục và đào tạo. Trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư thì điều đó lại càng trở thành một chân lý. Bài viết của một số tác giả đã phân tích sâu về quan điểm này và đề xuất những giải pháp cơ bản để nâng cao chất lượng nguồn lực con người ở các trường đại học, cao đẳng hiện nay.
Đại hội XIII Đảng khẳng định con người là trung tâm của sự phát triển và kiên định phát triển con người Việt Nam toàn diện: “Coi con người là trung tâm, chủ thể, nguồn lực quan trọng nhất và mục tiêu của sự phát triển; lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam là nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững”. Đồng thời khẳng định: “Mọi chính sách của Đảng, Nhà nước đều phải hướng vào nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và hạnh phúc của nhân dân”; thực hiện “phát huy nhân tố con người, lấy nhân dân làm trung tâm; phát huy vai trò của văn hóa – nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực của sự phát triển”. Đại hội XIII chủ trương: “Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế”. Đây là chủ trương đúng đắn, thể hiện sự nhạy bén, sáng tạo và tư duy đột phá. Tuy nhiên, để thực hiện tốt nội dung này, đòi hỏi phải có một chiến lược tổng thể và lâu dài, với hệ thống các giải pháp mang tính đồng bộ, thiết thực, khả thi, trong đó có thể tập trung thực hiện tốt một số nội dung sau:
– Thứ nhất, đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý trong các trường đại học, cao đẳng. Đại hội XIII xác định: “Phát triển nguồn nhân lực, giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu nhân lực chất lượng cao của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế” là một trong những nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm và “Chăm lo xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục là khâu then chốt”. Vì vậy, các cơ sở giáo dục cần chú ý quan tâm đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý. Chú trọng công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, chuẩn hóa đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý giáo dục, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Tập trung bồi dưỡng toàn diện cả về học vấn, trình độ quản lý, chỉ huy, năng lực sư phạm và kinh nghiệm thực tiễn cho đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý giáo dục. Đây là nội dung quan trọng, có ý nghĩa nền tảng trong nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý giáo dục của Nhà trường cả trước mắt và lâu dài.
– Thứ hai, thực hiện chính sách ưu đãi đối với đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý ở các trường đại học, cao đẳng.
– Thứ ba, trọng dụng nhân tài, tuyển dụng khách quan; nâng cao chất lượng nghiên cứu, giảng dạy, quản lý của đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta thực hiện nhiều cơ chế, chính sách để khuyến khích, động viên, thu hút người tài vào làm việc ở mọi ngành, lĩnh vực, Đại hội XIII, Đảng ta nhấn mạnh: “Tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân tài”. Vì vậy, hiện nay các trường đại học, cao đẳng cần xây dựng chính sách thiết thực, phù hợp khi tuyển dụng nhân sự.
Bên cạnh đó, cũng còn nhiều hạn chế, khó khăn đòi hỏi đội ngũ giảng viên cũng như các cơ quan chủ quản phải tích cực hơn nữa trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên đại học hiện nay. Do đó, để tiến tới thực hiện tự chủ trong giáo dục đại học thì vấn đề xây dựng, phát triển, đào tạo và phát triển đội ngũ giảng viên là yếu tố then chốt. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, cha ông ta đã sáng suốt khi dựa vào nhân tố con người để đạt đến mọi thành công. Ngày nay, trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, việc luôn nhận thức sâu sắc vai trò to lớn của nguồn lực con người và lấy đó làm điểm tựa vững chắc là điều kiện để chúng ta đưa sự nghiệp đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đến thắng lợi. Phát huy nguồn lực con người để phát triển xã hội, đó là một vấn đề có tính quy luật.
Chủ đề 4: Nguồn lực ý tưởng cho giáo dục đại học trong bối cảnh tự chủ
Toàn cầu hóa đã tạo ra một sự chú ý đặc biệt đối với hệ thống giáo dục đại học và các cơ sở đào tạo đại học của từng quốc gia. Toàn cầu hóa liên quan tới quá trình hội nhập ngày càng cao giữa các quốc gia thông qua sự trao đổi hàng hóa, vốn liếng, nguồn nhân lực, và chất xám. Tầm quan trọng của tri thức ngày càng gia tăng rõ rệt đối với sự giàu mạnh của các quốc gia, và việc tiếp cận tri thức cũng như khả năng phổ biến tri thức đã trở thành nguồn lực chính của lợi thế cạnh tranh. Với chủ đề này, các tác giả đã đi sâu phân tích và gợi ý về nguồn ý tưởng tiếp cận mới trong phát triển giải pháp tự động hóa quy trình nghiệp vụ trước bối cảnh tự chủ tại các trường đại học – cao đẳng Việt Nam và phương pháp Nano-learning trong cơ sở giáo dục.
Việc tiến hành số hoá dữ liệu, phát triển các ứng dụng để quản lý các dữ liệu số hoá đang là vấn đề đáng được quan tâm. Do đó, có nhu cầu không nhỏ trong thực hiện tích hợp, kết nối các hệ thống nhằm mục tiêu giúp các bộ phận trong nhà trường có thể thực hiện được các nghiệp vụ được phân tích liền mạch. Ngoài việc thực hiện theo cách truyền thống, thì có thể áp dụng giải pháp RPA như Hệ thống thông tin liên quan tới hoạt động Quản lý đào tạo, Quản lý người học, Thanh tra và Kiểm định chất lượng, Nghiên cứu khoa học, Thư viện, Tài chính kế toán… Song song với đó là ý tưởng đưa Nano-learning một số tác giả cho rằng việc ứng dụng đó vào các cơ sở GDĐH là cần thiết. Với sự phát triển công nghệ hiện tại, người dùng có thể áp dụng phương pháp Nano-learning để cung cấp bài học một cách nhanh chóng để truy cập thông tin khi cần thiết ở bất cứ đâu. Nano-learning giảm nội dung cần thiết và làm cho nội dung ngắn gọn, súc tích, đảm bảo tiếp thu kiến thức đạt được kỹ năng nhanh chóng và hiệu quả.
Chủ đề 5: Nguồn lực công nghệ cho giáo dục đại học trong bối cảnh tự chủ
Như chúng ta đã biết, trên thế giới, không phải những nước chiếm giữ nhiều tài nguyên và tiền bạc mà chính những nước chiếm giữ tri thức và công nghệ mới trở thành các quốc gia phát triển hàng đầu. Nói một cách ngắn gọn, trên toàn cầu, quyền lực công nghệ bao giờ cũng quyết định vị trí và thứ bậc phát triển của các quốc gia. Thực tế lịch sử đã chứng minh, người nào làm chủ công nghệ, tri thức thì người đó sẽ chiến thắng. Cùng với sự phát triển của xã hội trong thời đại kỹ thuật số, công nghệ thông tin được ứng dụng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần to lớn trong việc cải tạo cuộc sống và nâng cao chất lượng cuộc sống của con người. Trong đó giáo dục, công nghệ thông tin hỗ trợ đắc lực trong công tác quản lý và giảng dạy trong nhà trường, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả các hoạt động giáo dục và đào tạo trong giai đoạn hiện nay. Các bài viết trong chủ đề này đã khái quát vai trò, chỉ ra thực trạng ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy, từ đó đề ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả ứng dụng công nghệ thông trong giảng dạy hiện nay với những nhận xét xác đáng như:
- Ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy giúp dễ dàng thu thập, lưu trữ và tổng hợp kiến thức đa dạng phong phú, cập nhập thường xuyên.
- Công nghệ mang lại sự tiện lợi trong không gian và thời gian hết sức linh hoạt. Bên cạnh đó, công nghệ giúp hỗ trợ giáo viên trong việc soạn giảng và giảng dạy.
- Các trường đại học cần phải cân nhắc kỹ các nhu cầu và mục tiêu của mình trước khi đầu tư vào các công nghệ, đảm bảo rằng các công nghệ được áp dụng đem lại hiệu quả tối đa cho việc giảng dạy và học tập.
Chủ đề 6: Tăng cường hợp tác quốc tế trong giáo dục đại học
Trong những năm qua, hợp tác quốc tế trong các cơ sở giáo dục đại học đã góp phần đáng kể trong việc cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho công cuộc xây dựng đất nước, thực hiện chuyển giao công nghệ đào tạo. Bên cạnh đó, hợp tác quốc tế trong giáo dục đại học cũng bộc lộ những hạn chế nhất định. Những bài viết trong chủ đề này đã đi sâu nghiên cứu thực trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong giáo dục đại học ở nước ta hiện nay. Những kiến nghị cần chú ý là:
– Đổi mới tư duy hội nhập quốc tế trong GDĐH
– Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, quy định về hợp tác quốc tế trong GDĐH
– Đa dạng hóa các lĩnh vực hợp tác quốc tế trong GDĐH
– Phát huy tính chủ động, tự chủ của các cơ sở GDĐH trong đa dạng hoá và đẩy mạnh các hoạt động liên kết với các tổ chức, các trường đại học uy tín trên thế giới trong giáo dục và đào tạo.
Hợp tác quốc tế trong GDĐH là xu thế tất yếu đối với mọi quốc gia, cũng như các trường đại học trong bối cảnh toàn cầu hóa và tác động của cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay. Do đó, Bộ Giáo dục và Ðào tạo cần có nghiên cứu đánh giá đầy đủ, toàn diện về hợp tác quốc tế trong giáo dục đại học nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm để nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục đại học trong nước để đạt được hiệu quả của công tác này.
Chủ đề 7: Các vấn đề liên quan khác
Với chủ đề này, 19 bài viết với nhiều nội dung khác nhau đa phần đều tập trung chủ yếu phân tích các vấn đề liên quan đến tự chủ đại học trong bối cảnh hiện tại. Các tác giả cho rằng, tự chủ là cần thiết cho các trường đại học để đổi mới và đáp ứng nhu cầu của kinh tế số, nó cũng đặt ra những thách thức về trách nhiệm, đảm bảo chất lượng và quản lý nguồn lực.
Các trường đại học phải đối mặt với nhiều thách thức khi áp dụng mô hình tự chủ, bao gồm: Tài chính, đào tạo và phát triển giảng viên, đổi mới chương trình đào tạo, quản lý và điều hành…thêm vào đó, các trường đại học còn phải đối mặt với sự cạnh tranh từ các trung tâm đào tạo nghề, các chương trình học trực tuyến, hay các trường đại học nước ngoài có chất lượng đào tạo và giá thành cạnh tranh. Vì vậy, để đối phó với sự cạnh tranh này, các trường đại học cần phải tạo ra các chương trình học tập mới, nâng cao chất lượng đào tạo, cải thiện hạ tầng vật chất và tăng cường quảng bá thương hiệu để thu hút và giữ chân sinh viên.
Trong bối cảnh thế giới đang chuyển đổi sang kinh tế số và nền tảng công nghệ thông tin ngày càng phát triển, thị trường lao động đang thay đổi nhanh chóng và đòi hỏi các nhân viên cần có kỹ năng cao hơn, linh hoạt hơn và có khả năng thích nghi với những thay đổi công nghệ mới. Vì vậy, việc đổi mới giáo dục để phù hợp với thị trường lao động là một thách thức lớn đối với các trường đại học ở Việt Nam.
Việc tăng cường đổi mới giáo dục để phù hợp với thị trường lao động là một thách thức lớn đối với các trường đại học, tuy nhiên đây cũng là cơ hội để các trường định hướng giáo dục của mình theo hướng phù hợp với thực tiễn và đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động.
Trong hơn 10 năm trở lại đây, hệ thống GDĐH của Việt Nam đã có những thay đổi cơ bản, đó là sự đa dạng hóa sở hữu các trường đại học, các loại hình đào tạo cũng như đòi hỏi của các nhà tuyển dụng… làm cho phương thức quản trị trường đại học đã có những thay đổi căn bản để đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của xã hội và xu thế của thời đại và việc thực hiện tập trung các nguồn lực đầu tư cho GDĐH trong bối cảnh tự chủ ở Việt Nam hiện nay là một tất yếu khách quan và vô cùng cần thiết./.
TS. Nguyễn Đình Hảo
Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam