“loay hoay” bài toán ĐH ứng dụng , ĐH nghiên cứu & mô hình Đại học thông minh nhất

Ngày 29/05/2021

GS Nguyễn Hữu Đức, ĐH Quốc gia Hà Nội cho biết, mô hình đại học thông minh hiện đại nhất hiện nay là mô hình đại học ứng dụng các hệ thống thực – ảo (Cyber Physical System – CPS) và IoT. Các hệ CPS là đặc trưng tiêu biểu của môi trường công nghiệp 4.0, là cơ sở để thiết kế và xây dựng các mô hình nhà máy thông minh.

CPS thường được thiết kế với cấu trúc 5C (Connection – kết nối thông tin, Conversion – chuyển đổi thông tin, Cyber – phân tích, Cognition – nhận diện và Configuration – cấu hình hóa).

Về hạ tầng và kết nối trong đào tạo đại học. Theo cách diễn đạt về công nghiệp 4.0: con người, vạn vật và máy móc được kết nối để tạo ra một nền sản xuất và dịch vụ cá thể hóa.

Nội dung và công nghệ được kết nối để thúc đẩy mục tiêu đào tạo cá thể hóa. Một hệ sinh thái như vậy sẽ biến đổi trường đại học truyền thống thành một hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, trong đó mô hình quản trị chia sẻ (shared governance) sẽ được vận hành.

Đó là mô hình quản trị tiếp cận hệ thống, trong đó tất cả các bên liên quan từ thành viên hội đồng quản trị đến lãnh đạo, giảng viên và nhân viên hành chính đều tích cực chia sẻ trách nhiệm, cùng theo đuổi mục tiêu phát triển bền vững của nhà trường.

Để thích ứng với cuộc CMCN 4.0 và sứ mệnh mới, đào tạo theo định hướng đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp cần được triển khai theo mô hình “5 trong 1” (5 thành tố hướng đến 1 mục tiêu), trong đó: 1 chuẩn đầu ra với nhiều kỹ năng mới của công dân 4.0 và 5 thành tố Như hình minh hoạ sau:

Có nhiều chương trình đào tạo (ngành nghề) mới có tính liên ngành và xuyên ngành cao và nhiều chương trình đào tạo gắn với công nghệ 4.0; Các chương trình đào tạo truyền thống có cấu trúc chương trình được đổi mới; Công nghệ đào tạo mới; Các dự án khởi nghiệp mới và liên kết với doanh nghiệp; Hệ sinh thái giáo dục khởi nghiệp mới kết nối tất cả các bên liên quan: giảng viên, người học, giảng đường, phòng thí nghiệm và người sử dụng.

khởi nghiệp ở đây cần phải hiểu như thế nào?

 nói rõ thêm rằng tinh thần khởi nghiệp phải hiểu đầy đủ và đúng. Ở đây, sự phổ cập nên chỉ nên nói đến định hướng và tinh thần. Không phải khởi nghiệp là cứ lập doanh nghiệp và công ty.

Khởi nghiệp trước hết là tinh thần làm chủ và khả năng đổi mới sáng tạo tại vị trí của mình đảm nhiệm, đối với bộ phận mà mình phụ trách v.v… Sau đó mới khởi nghiệp với vị trí mới, công việc mới và doanh nghiệp mới.

Về các chương trình đào tạo ngành nghề mới cần quan tâm đến các ngành nghề mà nền công nghiệp 4.0 đòi hỏi, đặc biệt về Công nghệ số; Công nghệ dữ liệu lớn; Trí tuệ nhân tạo; Người máy; Internet kết nối vạn vật; Công nghệ vật liệu mới và cảm biến; Công nghệ nano; Công nghệ in 3D; Công nghệ năng lượng và Công nghệ sinh học.

Trong đó, hệ thống thực – ảo được coi là nền tảng. Ví dụ, ở Malaysia, 5 nhóm lĩnh vực sau đây đã được xác định là: Trí tuệ nhân tạo, học máy, tự động hóa, an toàn mạng, dữ liệu lớn và phân tích dữ liệu; Các lĩnh vực kỹ thuật tích hợp như Công nghệ sinh học, Khoa học và công nghệ y sinh, công nghệ thông tin, khoa học máy tính và chăm sóc sức khỏe; Khí hậu, năng lượng, tài nguyên và môi trường; Giáo dục khai phóng, công nghệ thiết kế và công nghiệp sáng tạo; Khoa học giáo dục và đào tạo kỹ năng.

Lưu ý rằng, trong thời đại 4.0, đổi mới sáng tạo không chỉ xảy ra trong lĩnh vực công nghệ – kỹ thuật mà với khả năng sử dụng nền tảng công nghệ chung, đổi mới sáng tạo cũng hoàn toàn được triển khai trong cả các lĩnh vực khoa học xã hội và quản lý, đặc biệt là lĩnh vực công nghiệp văn hóa và công nghiệp sáng tạo (điện ảnh, mỹ thuật, âm nhạc, sáng tác…).

Tinh thần sáng nghiệp của đại học 4.0 không chỉ được thể hiện trong đặc điểm ngành nghề mới, mà cả trong cấu trúc của chương trình đào tạo. Theo đó, tiếp cận kiểu chương trình đào tạo linh hoạt (Fluid and Organic Curriculum) và kiểu chương trình đào tạo chuẩn bị cho tương lai (Future Readiness Curriculum) mà Bộ Giáo dục Đại học Malaysia đã đề xuất là một hướng đi rất lôgic và hợp lý.

Trước hết, sự linh hoạt thể hiện ở chỗ thay cho nền tảng kiến thức cơ bản là các môn học đại cương truyền thống (ví dụ như Toán cao cấp, Vật lý đại cương, Tin học cơ sở…), các trường đại học cần quan tâm bổ sung các môn học mới, ví dụ như về Công nghệ 4.0 đại cương, Kỹ năng số và khoa học dữ liệu, Giáo trình khởi nghiệp và Kiến thức về sở hữu trí tuệ.

Việt Nam vẫn “loay hoay” giữa ĐH ứng dụng và ĐH nghiên cứu

Bài toán chất lượng đào tạo đại học ở Việt Nam luôn được đề cập, vậy làm thế nào để giải được bài toán này trong thời cuộc cấp bách hiện nay ?

Vấn đề chất lượng giáo dục đại học đang được đánh giá chưa đúng mức, trước hết, do cách hiểu khái niệm “chất lượng” đôi lúc còn mơ hồ và nhầm lẫn.

Nhiều người cứ nói rằng chất lượng đào tạo của trường A cao hơn trường B theo vị thế, uy tín của trường đó mà không hề quan tâm đến sứ mệnh của các trường. theo quan điểm của kiểm định chất lượng thì khái niệm chất lượng được đo bằng mức độ đáp ứng (và tương thích) với mục tiêu đề ra và sứ mệnh. Các trường đại học định hướng ứng dụng thường gắn với chất lượng đào tạo đáp ứng nghề nghiệp; Đại học định hướng nghiên cứu gắn với đào tạo năng lực sáng tạo.

nếu chúng ta chỉ dừng lại ở các mô hình đại học truyền thống mà Việt Nam đang theo đuổi như hiện nay (kể cả khi chúng ta có một số đại học nghiên cứu tốt) thì sinh viên của chúng ta mới chỉ có khả năng tìm việc (làm công ăn lương) và cùng lắm là có khả năng sáng tạo – sáng tạo ra tri thức mới – những sản phẩm trung gian (chưa ra được thị trường) hoặc sản phẩm ở thì tương lai.

Trên thế giới, không thấy có một quốc gia nào thịnh vượng chỉ nhờ vào và dừng lại ở việc chỉ xây dựng đại học định hướng ứng dụng và đại học định hướng nghiên cứu.

Thực tế, nền sản xuất của người ta phát triển, quốc gia người ta tạo ra được các yếu tố cạnh tranh là nhờ việc thúc đẩy các hoạt động đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp.

Tại một cuộc thuyết trình tại ĐHQGHN gần đây, GS. Tan En Chye – Giám đốc ĐHQG Singapore có trao đổi với chúng tôi rằng trước những năm 1990, giáo dục đại học của Singapore chỉ tập trung đào tạo nguồn nhân lực phục vụ các ngành kinh tế.

Tuy nhiên, sau đó họ nhận ra rằng, Singapore là một nước nhỏ và nghèo tài nguyên, nếu không có đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp thì không những rất khó tồn tại, khó cạnh tranh mà còn không thể mơ đến sự thịnh vượng.

Hiện nay, giáo dục có chất lượng cao ở Singapore đạt được là nhờ chủ trương đào tạo theo định hướng đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp của Chính phủ và các trường đại học.

Từ năm 2000, sứ mệnh của ĐHQG Singapore luôn gắn với 3 nhiệm vụ ưu tiên: nghiên cứu sáng tạo trình độ cao, đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp. Chỉ tính riêng đại học này, mỗi năm họ công bố được số bài báo ISI, Scopus lớn hơn vài lần tổng số bài báo của cả nước ta. Không dừng lại đó, số bằng sáng chế của họ cũng đạt đến vài nghìn. Đặc biệt, hàng năm có khoảng 1.000 sinh viên có dự án khởi nghiệp và trong số đó khoảng 400 em khởi nghiệp thành công.

Mô hình đại học 4.0 đang còn rất mới ở Việt Nam, làm thế nào để có thể giúp các trường đại học tiếp cận nhanh và triển khai đúng hướng.

Hiện nay Bộ GD&ĐT đang tổ chức cho một số nhóm các nhà khoa học nghiên cứu kỹ các đặc trưng và nội hàm của mô hình đại học này. Đặc biệt, các nhóm nghiên cứu còn đang hướng tới việc xây dựng một bộ công cụ, gồm các tiêu chuẩn, tiêu chí đánh giá mức độ thích ứng với cuộc CMCN 4.0, tức là mức độ thích ứng với mô hình đại học 4.0.

Với tình hình phát triển hiện nay, bộ tiêu chí này có thể được xây dựng cho hai nhóm trường đại học tương đương với top 200 và 500 các trường đại học châu Á. Kèm theo bộ tiêu chí này sẽ có phần mềm.

Trên cơ sở đó, các trường đại học có thể tự lựa chọn nhóm trường và tự đối sánh hiện trạng của mình và đưa ra các chính sách đầu tư phù hợp.

GS. TS Nguyễn Hữu Đức