Tự chủ Đại học thực tế hiện nay dưới góc nhìn xây dựng luật
Giáo sư. TS Hoàng Văn Cường
Trường đại học là nơi chứa đựng những tri thức, sáng tạo những giá trị xã hội mới. Hãy để các trường được tự chủ một cách đúng nghĩa, phát triển, sáng tạo và tạo diện mạo mới cho hệ thống giáo dục đại học Việt Nam.
Hành lang pháp lý chưa rõ ràng nhất quán, gây khó cho các trường đại học thực hiện tự chủ
Giáo sư Hoàng Văn Cường : Luật pháp đã quy định, tự chủ là quyền tự quyết gắn với tự chịu trách nhiệm, giải trình. Tuy nhiên, vấn đề pháp lý chưa rõ ràng nên khi trường tự quyết lại dễ dẫn tới vi phạm luật. Đây là điều mâu thuẫn, bất cập lớn nhất hiện nay. Những người đứng đầu cơ sở giáo dục công lập tự chủ vẫn không thể tự quyết vấn đề của mình khi phải tuân theo nhiều văn bản pháp lý chồng chéo, chịu sự kiểm soát của nhiều cơ quan quản lý nhà nước.Thực tế vấn đề này đã từng diễn ra, Trường Đại học Tôn Đức Thắng là một trong những điển hình về tự chủ. Theo tinh thần tự chủ, tự quyết nên không tương thích với các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành còn chưa kịp sửa đổi theo Nghị quyết 19-NQ/TW. Câu chuyện đó trở thành bài học khiến các trường đại học khác bước vào tự chủ với tâm lý lo sợ, e ngại, các trường không dám làm, không dám đổi mới, và như thế thì không còn tự chủ.
Thực tế hệ luỵ còn chưa rõ ràng, bởi luật pháp cho phép nhưng quy định khác thì chưa
Ví dụ, luật pháp đã khẳng định các trường được tự chủ tự quyết định về tài chính và đầu tư mua sắm tài sản. Nhưng khi đầu tư mua sắm bằng nguồn tiền tự thu của trường thì vẫn phải tuân thủ theo quy định Đấu thầu như sử dụng tiền từ ngân sách. Ngay cả khi biết rằng nếu phải tuân thủ qui định đấu thầu, vừa mất nhiều thời gian, vừa phải qua nhiều khâu trung gian tăng chi phí và có thể không mua được đúng những sản phẩm trường muốn mua, thì các trường cũng không thể bỏ qua quy định này để tổ chức mua trực tiếp được sản phẩm ưng ý hơn, thậm chi chi phí rẻ hơn.
Phức tạp về sử dụng tài sản
Về mặt tài sản,nếu trường muốn tận dụng lúc thời gian chưa dùng hết để cho thuê một tài sản nào đó có khi giá thuê chỉ vài trăm ngàn (ví dụ thuê phòng học một vài buổi) thì theo quy định vẫn phải làm đề án báo cáo cơ quan chủ quản phê duyệt, thuê cơ quan đấu giá để xác định giá thuê và công bố giá thuê trên cổng thông tin quốc gia. Quá trình phức tạp đó làm cho các trường chấp nhận vi phạm nếu mạnh dạn muốn tăng nguồn thu cho trường hoặc bỏ phí không cần tận dụng để lãng phí tài sản.
Luật qui định các trường được tự chủ về tổ chức và nhân sự. Nhưng thực tế, khi trường muốn tuyển dụng, bổ nhiệm cá nhân nào vẫn phải chịu sự chi phối về Luật Viên chức và các quy định của Chính phủ về tuyển dụng, bổ nhiệm cán bộ. Phải tuân thủ quy định này, các trường khó tuyển dụng được những nhân sự xuất sắc vì phải yêu cầu những người giỏi chờ đợi các kỳ tuyển dụng, phải tuân thủ các bước quy trình không thực chất.
Ngoài 3 trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Đại học Bách khoa Hà Nội và Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh được Chính phủ cho phép thí điểm ký hợp đồng lao động với giảng viên là người nước ngoài, còn lại, các trường khác dù có tự chủ thì cũng chỉ được ký hợp đồng với giảng viên nước ngoài khi đã được cơ quan quản lý cấp phép.
Những thực tế kể trên cho thấy, khi cơ chế còn chưa rõ ràng, thậm chí hệ thống văn bản pháp lý còn chồng chéo và tồn tại nhiều bất cập thì các trường đại học sẽ phải đối diện với rất nhiều khó khăn, chưa thể thực hiện được các quyền tự chủ như mong muốn.
Tự chủ Đại học là yêu cầu tiến trình phát triển giáo dục đương đại, mục tiêu mang lại lợi ích chung cho xã hội. Giải pháp để có thể tự quyết và bứt phá, sự phát triển mạnh mẽ cho giáo dục đại học hiện nay.
Theo Đại biểu Quốc hội Giáo sư Hoàng Văn Cường: Trường đại học là cái nôi của nghiên cứu khoa học, mục tiêu cốt lõi của tự chủ đại học là tạo môi trường tự do không ràng buộc, không giới hạn để khuyến khích sáng tạo ra tri thức mới, giá trị mới, những sáng tạo xã hội. Và để thực hiện được mục tiêu đó, các trường phải thực sự được tự chủ, tự do, được tự quyết những vấn đề, hoạt động của mình.
Sáng tạo nhưng chưa có hành lang pháp lý để “ cởi trói” nên e ngại
Sáng tạo có nghĩa là họ không đi theo lối cũ, không theo cách làm cũ, không theo khuôn khổ đã vạch ra, họ có thể quyết định triển khai thực hiện một cách làm chưa có trong tiền lệ. Tất nhiên đó phải là những việc làm vì lợi ích của người học, vì sự phát triển của của cơ sở giáo dục đại học đó và không gây phương hại đến tổ chức, cá nhân nào.
Những quy định cứng nhắc bắt buộc người quản lý phải tuân thủ chấp hành như hiện nay chính là hành lang pháp lý vẫn đang “trói buộc” các trường không được quyền sáng tạo, không có cơ hội để bứt phá. Nếu tự quyết để rồi vướng vào vi phạm pháp luật thì chẳng ai còn dám đổi mới, sáng tạo. Cứ như vậy thì biết đến bao giờ các trường đại học có thể trở thành cái nôi của sáng tạo xã hội và tạo ra những giá trị mới?
Và chính những bất cập trong hành lang pháp lý vẫn chưa cởi trói cho tự chủ đại học, nó đang triệt tiêu hết những ý tưởng đổi mới, sáng tạo, bởi khi người ta có ý tưởng nhưng gặp phải tâm lý e ngại, lo sợ không dám thực hiện, triển khai thì tất cả những ý tưởng sáng tạo cũng triệt tiêu.
Chính vì vậy, chúng ta cần phải có cơ chế bảo vệ những người dám tiên phong, dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới. Bảo vệ không phải chỉ là câu khẩu hiệu, lời tuyên bố chung chung mà phải xây dựng tiêu chí cụ thể làm căn cứ những người sáng tạo có chỗ dựa yên tâm khi hành động.
Đối tượng quản lý và chịu tác động của các trường đại học là những người có học thức cao, có đủ khả năng nhận biết và đánh giá những quyết định là phù hợp hay bất thường. Do vậy, nếu có một cơ chế công khai minh bạch và qui định trách nhiệm giải trình thì các trường đại học hoàn toàn có thể tự quyết định những vấn đề của mình một cách hiệu quả nhất mà không cần phải tuân thủ các qui định từ bên ngoài.
Với cơ chế công khai minh bạch và trách nhiệm giải trình thì các quyết định không thể mang tính chủ quan của một cá nhân mà là một quyết định có cơ sở, dựa trên các căn cứ lựa chọn tối ưu nhất được mọi người thừa nhận.
Giải pháp là trường đại học phải chủ động:
Theo Giáo sư Hoàng Văn Cường: Nhà trường phải có quy định, quy chế rõ ràng về vấn đề quản lý. Phải phân định rõ ràng quyền hạn và trách nhiệm của Hội đồng trường và Ban giám hiệu. Đó là việc làm cần thiết hiện nay vì pháp luật chưa quy định rõ ràng, thậm chí mỗi cơ sở, mỗi trường vẫn hiểu theo một cách khác nhau. Các trường đại học phải có quy định, quy chế để làm căn cứ, cơ sở cho những quyết định của mình. Những quy định này cũng cần được công khai minh bạch, khi thực hiện, trường có trách nhiệm công khai với xã hội để cơ quan quản lý nhà nước thay mặt xã hội kiểm tra giám sát. Khi đó cơ quan chủ quản không còn đóng vai trò xét duyệt, xin cho mà thực sự đóng vai trò của cơ quản lý, làm nhiệm vụ “thổi còi” nếu hành động của các trường vi phạm luật hoặc không thực hiện đúng các tuyên bố, cam kết với xã hội.
Bên cạnh đó, các trường phải chia sẻ, kết nối với nhau, phải có tiếng nói đồng thuận để các cơ quan quản lý nhà nước hiểu những vấn đề còn tồn tại trong cơ chế hiện nay. Những gì luật pháp quy định thì các trường cần tuân thủ, những gì luật chưa quy định hoặc luật quy định không rõ ràng thì phải có cách xử lý, phải có hướng đi, thể hiện công khai, minh bạch, việc này đòi hỏi nội bộ các trường phải có quyết định và các trường phải bắt tay làm việc cùng nhau.
Hiện nay, chúng ta đang rất cần một Nghị định Chính phủ về tự chủ đại học, quan trọng nhất là về phân cấp, phân quyền, nêu rõ vai trò của cơ quan chủ quản cũng như các cơ quan quản lý nhà nước như thế nào, vấn đề công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của các trường ra sao?
Phải có hành lang pháp lý đủ rộng, giảm bớt những chồng chéo trong hệ thống văn bản pháp lý đang làm cản trở con đường tự chủ của các trường.
(Bài viết tóm lược phân tích thực tế Tự chủ Đại học, nhận định & giải pháp dưới góc độ rút ra bài học xây dựng hành lang pháp luật Tự chủ Đại học có hiệu lực. Giáo sư Hoàng Văn Cường trả lời Báo Giáo dục.net
Ban TT – SV