Các trường có quyền nâng tiêu chuẩn sàn so với Quy chế đào tạo Tiến sỹ của Bộ – TS. Nghiêm Xuân Huy

Ngày 15/07/2021

Tiến sĩ Nghiêm Xuân Huy – Viện trưởng Viện Đảm bảo chất lượng giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội 

Ông Huy cho biết : Trên thực tế, Điều 22 của Thông tư 18 đã quy định, quy chế trong thông tư này chỉ là cái khung sàn, còn các cơ sở giáo dục được quyền thiết lập các tiêu chuẩn cao hơn, phục vụ mục tiêu phát triển của mình. Do đó, đây là văn bản mang tính chất nền tảng, là căn cứ để cơ sở đào tạo xây dựng và ban hành quy định chi tiết về tuyển sinh, tổ chức đào tạo trình độ tiến sĩ và cấp bằng tiến sĩ áp dụng tại cơ sở đào tạo.

Điều 22 của Thông tư 18 quy định rõ, cơ sở đào tạo có trách nhiệm xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện quy chế của cơ sở đào tạo; cụ thể hóa với yêu cầu ngang bằng hoặc cao hơn nhưng không trái với những quy định của Quy chế này.

Rõ ràng, các cơ sở giáo dục, theo sứ mệnh, mục tiêu, danh tiếng, tiềm lực khoa học công nghệ của mình, có thể thiết lập các mức yêu cầu khác nhau đối với nghiên cứu sinh, miễn là không thấp hơn các quy định trong Quy chế này.

Ngày 28/6/2021, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Thông tư 18/2021/TT-BGDĐT về Quy chế tuyển sinh và đào tạo trình độ tiến sĩ thay thế Thông tư 08/2017/TT-BGDĐT. Với một số điểm mới của Thông tư 18, có một số ý kiến cho rằng, quy chế mới này đang “hạ tiêu chuẩn” đối với điều kiện đầu ra của nghiên cứu sinh khi thực hiện đánh giá luận án tại đơn vị chuyên môn; làm giảm chất lượng đào tạo tiến sĩ.

Tiến sĩ Nghiêm Xuân Huy lý giải: “Chẳng hạn, trường đại học phát triển theo mô hình đại học nghiên cứu, chú trọng công bố quốc tế để thúc đẩy xếp hạng đại học hoặc các mục tiêu khác, thì có thể đưa yêu cầu bắt buộc về công bố quốc tế đối với nghiên cứu sinh, để vừa gia tăng chất lượng nghiên cứu, vừa phục vụ mục tiêu phát triển.

Tương tự, những trường có đội ngũ giáo sư, phó giáo sư với năng lực hội nhập quốc tế cao, có thể nâng tiêu chí về công bố quốc tế đối với nghiên cứu sinh, nhằm phát huy tối ưu tiềm lực nhân lực khoa học của mình. Tôi cho rằng, ở những cơ sở giáo dục như vậy, giả như không có quy định về định mức công bố quốc tế, thì họ vẫn sẽ thực hiện các yêu cầu đó, bởi đó là nhu cầu phát triển tự thân của họ.

Với việc đặt chỉ tiêu công bố khoa học ở mức cao, cùng với quy trình quản lý, đảm bảo chất lượng hoạt động đào tạo tiến sĩ chặt chẽ, sự minh bạch, khách quan trong đánh giá người học, thì uy tín đào tạo tiến sĩ của các cơ sở giáo dục đó sẽ tăng lên cao, sẽ xác lập được vị thế cao trong hệ thống giáo dục đại học.

Có thể thấy, trên thế giới, các tiến sĩ tốt nghiệp những đại học như Đại học Harvard, Đại học Oxford, Đại học Cambridge… thường chứng minh được năng lực nghiên cứu xuất sắc và đẳng cấp của riêng mình. Họ có lợi thế trong việc thu hút nguồn lực phục vụ các dự án nghiên cứu, hoặc có cơ hội thành công cao hơn trong các hoạt động chuyên môn, nghề nghiệp. Họ tự hào với nơi mình được đào tạo và trưởng thành. Tôi nghĩ, đây cũng nên là điều mà các trường đại học ở Việt Nam nên tính đến trong bối cảnh tự chủ hiện nay.

Tuy nhiên, thực tế vừa qua, một số trường đại học vì các yêu cầu về công bố quốc tế rất cao đối với nghiên cứu sinh đã gặp khó khăn trong phát triển nhân lực khoa học. Họ không thể tuyển sinh hoặc đào tạo được đội ngũ tiến sĩ kế cận cho các ngành nghề đào tạo. Rõ ràng, những trường đại học này cần có một lộ trình phát triển từng bước, tích lũy từ lượng đến chất. Hội nhập quốc tế, ngay cả cấp quốc gia, cũng là một quá trình. Tất nhiên, điều chỉnh chỉ tiêu đầu ra cần gắn với quản lý chất lượng chặt chẽ.

Thông tư mới này đã mở ra cơ hội, nhưng cũng đặt ra thách thức về kiểm soát chất lượng đào tạo tiến sĩ, đòi hỏi sự thực thi nghiêm túc và trách nhiệm giải trình cao của trường đại học.

Cũng theo Tiến sĩ Nghiêm Xuân Huy, trong bối cảnh tự chủ đại học, việc tiếp cận đào tạo tiến sĩ theo quy chế mới của Thông tư 18 là phù hợp, giúp các trường đại học thể hiện trách nhiệm, quyền quyết định về chất lượng đào tạo để tạo động lực cho sự phát triển.

Đã là văn bản áp dụng cho số đông mấy trăm trường đại học trong cả nước, thì cần có tính mở, vừa duy trì được những yêu cầu phát triển cơ bản, vừa trao quyền chủ động để các cơ sở giáo dục có thể tự quyết định đối với hoạt động đào tạo của mình.

“Dù có yêu cầu nghiên cứu sinh phải có công bố quốc tế trên hệ thống WoS/Scopus thì cũng không bao giờ nên xem nghiên cứu sinh là lực lượng công bố quốc tế chủ chốt của trường đại học, quyết định tới sản lượng công bố quốc tế của trường đại học. Bởi, nghiên cứu sinh là những người đang từng bước học cách nghiên cứu độc lập, họ chưa phải là nhà khoa học trưởng thành.

Dù họ có công bố quốc tế, thì đó cũng chưa phải là những công trình nghiên cứu độc lập của họ, vì sự tham gia của giáo sư hướng dẫn và nhóm nghiên cứu ở các phòng thí nghiệm nơi học học tập cũng đóng vai trò rất lớn trong mỗi công bố ấy.

Như vậy, các công bố quốc tế phản ánh một phần năng lực nghiên cứu của nghiên cứu sinh, không nên xem đó là tiêu chí duy nhất cho năng lực nghiên cứu của nghiên cứu sinh hoặc chất lượng đào tạo của cơ sở giáo dục. Không dễ để đo lường mức độ xuất sắc hay mức độ tích lũy tri thức của nghiên cứu sinh nếu chỉ dựa vào công bố quốc tế mà họ tham gia đứng tên.

Tôi không phản đối việc khuyến khích hay yêu cầu nghiên cứu sinh công bố quốc tế, bởi đó cũng là một giải pháp tích cực, nhưng không nên tuyệt đối hóa việc này. Chúng ta đã nghe những câu chuyện về tiêu cực trong công bố quốc tế rồi. Sâu xa vẫn là ý thức của những người trong cuộc. Bản thân người học nếu đã không vì sự phát triển của chính mình để học, thì cho dù có giải pháp, yêu cầu cao đến đâu thì họ vẫn có cách để đạt được mục tiêu là lấy tấm bằng.

Việc lo ngại về chất lượng đào tạo tiến sĩ đến từ đông đảo các nhà khoa học là điều hợp lý, thể hiện trách nhiệm xã hội của giới học thuật. Tuy nhiên, tôi cho rằng vẫn có những giải pháp cho vấn đề này mà không nhất thiết phụ thuộc hoàn toàn vào yêu cầu công bố quốc tế đối với nghiên cứu sinh”, Tiến sĩ Nghiêm Xuân Huy nhận định.

Theo Tiến sĩ Nghiêm Xuân Huy, để đảm bảo chất lượng đào tạo tiến sĩ, phải có cơ chế giám sát, đảm bảo quy trình dạy và học, quy trình kiểm tra đánh giá người học được thực hiện đầy đủ và hiệu quả, xác lập rõ và giám sát vai trò, trách nhiệm của thầy hướng dẫn, vai trò và trách nhiệm của người học. Cao hơn nữa, cần chú trọng rèn luyện người học về liêm chính học thuật, tuân thủ các quy định về đạo đức học thuật, đó mới là gốc rễ của bất kỳ hoạt động giáo dục nào.

Tiếp đến là cần có giải pháp đảm bảo chất lượng hệ thống tạp chí khoa học trong nước, nhất là quy trình phản biện, biên tập, xuất bản bài báo. Đồng thời thúc đẩy để các tạp chí khoa học xuất bản trực tuyến, nhằm đảm bảo sự công khai, minh bạch các bài viết, cho phép cộng đồng khoa học giám sát chất lượng các công bố.

Ban TT – SV